Tinh tấn là căn bản để hàng phục ma chướng
***********************
Phiên âm: Đệ tứ giác tri: Giải đãi trụy lạc, thường hành tinh tấn, phá phiền não ác, tồi phục tứ ma, xuất ấm giới ngục.
Dịch nghĩa: Điều giác ngộ thứ tư: Giải đãi phải sa đ
ọa, nên thường hành tinh tấn, để phá phiền não ác, chiết phục cả bốn ma, ra khỏi ngục ấm giới.
Giảng giải:
----------------
Trong đời này, không luận làm việc gì cũng cần phải có tinh thần đại
hùng, đại lực, đại vô úy mới có thể thành công. Chúng ta dù xây dựng sự
nghiệp trong xã hội, hay tu học đạo nghiệp trong Phật Pháp, đều gặp
không ít chướng ngại hay ma nạn. Nếu ta do dự không tiến tới, hoặc có
chút ít giải đãi, sẽ không thành tựu được một việc gì cả! Nên trong đoạn
Kinh này, chúng tôi sẽ giảng đến đề tài: Tinh tấn là căn bản để hàng
chục ma chướng. Giải đãi là chỉ sự không hết lòng, hết sức trong viêc
đoạn ác tu thiện. Giải là căn thân mệt mõi; đãi là tâm thức phóng túng.
Giải đãi là căn bệnh chung của chúng sinh, mà thuốc trị nó chính là tinh
tấn.
Tinh tấn có nghĩa: Tâm thiện của chúng ta chưa phát sinh,
thì nỗ lực khiến cho sớm phát sinh; tâm thiện đã sinh, thì nỗ lực làm
cho được tăng trưởng; niệm ác chưa sinh thì cố gắng giữ đừng cho sinh:
niệm ác đã sinh, thì cố gắng sớm dứt trừ. Thế gian này là cảnh giới ma.
Tinh tấn có thể thành Phật, giải đãi sẽ đọa vào ma giới.
Xem
lại các bậc Thánh hiền thành tựu đạo nghiệp thuở trước, không ai là
chẳng trải qua một phen dùng tử công phu. Chúng tôi sẽ nói về Ngài A Na
Luật, đương cơ của Kinh này.
Một hôm trong Pháp hội của Phật,
Tôn giả A Na Luật bổng bị hôn trầm, giải đãi che lấp tâm tánh nên ngủ
gục. Đức Phật thấy đệ tử giải đãi không tinh tấn như vậy liền gọi Ngài
tỉnh dậy, quở rằng:
Than ôi ông ham ngủ
Như sò ốc trong vỏ
Ngủ một giấc ngàn năm
Không nghe danh hiệu Phật!
A Na Luật nghe xong, trong lòng rất hổ thẹn bèn phát nguyện từ nay về
sau không ngủ nữa, mỗi ngày nếu không kinh hành thì tụng Kinh. Một hai
ngày không ngủ cũng không sao. Nhưng A Na Luật thức liên tiếp nhiều ngày
đã ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và nhất là con mắt, song Ngài vẫn quyết
chí tinh tấn tu tập như vậy. Một thời gian sau, Ngài trở nên mù lòa.
Đức Phật thấy Ngài vì quá tinh tấn mà phải mù lòa nên rất thương, mới
dạy Ngài tu tập môn Kim Cương Chiếu Minh Tam Muội. Chẳng bao lâu Ngài
chứng được thiên nhãn thông.
A Na Luật chỉ nghe Phật dạy một
câu mà tinh tấn như thế. Người ta nếu không bị tình dục làm mê hoặc, sẽ
không bị tà ma làm nhiễu loạn. Người học Phật nghe học Kinh Pháp, liễu
tri thật tướng vạn hữu, đây là được đại trí của Bồ tát Văn Thù. Nhưng
lại phải tinh tấn thực hành trí bát nhã đó, mới có thể khế hợp với đại
hạnh của Bồ tát Phổ Hiền.
Tập khí của chúng sinh là ưa nhàn
nhã, thích hưởng thụ nên khó phát tâm dũng mãnh, tinh tấn tu đạo. Đức
Phật trong nhân tu quá khứ, từng xả thân cho cọp, cắt thịt cho chim ưng.
Đây là tâm tinh tấn, hy sinh, làm được việc khó làm, nhẫn được việc khó
nhẫn. Những kẻ phê bình Phật giáo là tiêu cực, làm sao có thể tưởng
tượng hay thể hội được điều này?
Bồ tát Quán Thế Âm với:
Ba mươi hai tướng, hiện Ta bà
Độ khắp muôn loài, kiếp hằng sa.
Ngàn chỗ nguyện cầu, ngàn chỗ ứng
Thuyền từ biển khổ, độ người ra.
Nếu người học Phật không có tinh thần tinh tấn, làm sao làm được như vậy?
Bồ tát Địa Tạng với lời nguyện:
Địa ngục chưa hết
Thề chưa thành Phật
Chúng sinh độ tận
Mới chứng Bồ Đề
Đây không phải là tinh thần tinh tấn của bậc đại nhân, đại trí hay sao?
Thời nay người ta rủ mình cờ bạc ăn tiền, nếu mình không theo, họ sẽ
cho mình là tiêu cực! Mời mình chè chén, khiêu vũ, mình không nhận lời,
họ cho mình là thụ động! Bậc Thánh giả tu học Bồ tát đạo, tinh tấn liễu
thoát sinh tử, rộng độ chúng sinh. Tinh thần tích cực này là điều mà
người bình thường khó mà hiểu được!
Đại sư Huyền Tráng đi Thiên
Trúc thỉnh Kinh, trải qua tám trăm dặm sa mạc, giữa đường thiếu nước cơ
hồ bỏ mình nơi hoang mạc, song Ngài vẫn nguyện: Thà đi về hướng Tây một
bước mà chết, quyết không quay về hướng Đông một bước mà sống! Nếu
không phải là người có nhiệt tình tôn giáo, tâm tinh tấn vì đạo, thì làm
sao có thể làm được việc như vậy?
Đại sư Tuệ Khả đến tham bái
Tổ sư Đạt Ma, đứng ngoài tuyết lạnh, chặt tay cầu Pháp mà vẫn không
thoái thất tâm tốt ban đầu. Thử hỏi, nếu không có tâm tinh tấn cầu Pháp,
thì làm sao có thể làm được như vậy? Trong Phật Pháp, lục độ lấy tinh
tấn làm chủ yếu. Không luận bố thí, trì giới, nhẫn nhục, thiền định, trí
tue? nếu không có tinh tấn, thì không cách nào thành tựu Ba la mật.
Trong Kinh nói tinh tấn có mười điều lợi ích:
1. Không bị lực lượng bên ngoài chiết phục.
2. Được chư Phật nhiếp thọ.
3. Chúng trời người kính ngưỡng.
4. Nghe được Chánh Pháp không quên.
5. Tìm biết được những điều chưa biết.
6. Tăng trưởng vô ngại biện tài.
7. Được an trú trong thiền định.
8. Ít bệnh, ít não, ít hoạn.
9. Ăn uống dễ dàng tiêu hóa.
10. Như hoa ưu đàm nở.
Tinh tấn như cọ xát cây lấy lửa, không thể dừng nghỉ giữa chừng. Tâm Bồ
đề đã phát nếu không có sức tinh tấn thường hằng thì khó mà duy trì
được. Không luận làm điều gì, nếu không có hằng tâm, tinh tấn, nghị lực,
giữa chừng bỏ dở, thì chắc chắn không thu được ích lợi, thành tựu được
kết quả. Người ta gọi là: nhiệt tình lửa rơm!
Người không có
tâm tinh tấn thường hằng, làm việc với tâm thái nhiệt tình lửa rơm như
vậy, thì làm sao có thể thành công? Muốn tâm tinh tấn được lâu bền, phải
có tinh thần như Khổng Minh: Dốc lòng hết sức, đến chết mới thôi, và
thái độ: Chỉ lo cày bừa, không nghĩ thu hoạch. Nếu người có tâm mong mau
chóng thành tựu, hay cầu cái lợi trước mắt, thì khi vừa gặp thất bại đã
bỏ cuộc, mới bị thử thách liền nản lòng. Người làm việc có đầu không có
đuôi, có thủy không có chung như vậy, là không có tinh thần tinh tấn,
không ngại gian lao, không nài khó nhọc. Trong Kinh có kể một đoạn ngụ
ngôn:
Có một con chim anh vũ, thấy một khu núi rừng bị lửa thiêu cháy, thế lửa rất mạnh.
Nó cảm thấy hết sức đau lòng, thương cho các loài sinh vật trong đó,
liền bay đến bờ sông dùng miệng ngậm nước để cứu lửa. Việc làm này giống
như đem nước một chén mà cứu lửa cả xe, đương nhiên không giải quyết
được vấn đề. Nhưng chim vẫn quyết tâm không từ bỏ việc cứu lửa.
Lúc đó vị thần lửa trên trời biết được, liền hiện xuống nói với chim:
- Này chim anh vũ, thế lửa lớn dường ấy mà ngươi chỉ dùng vài giọt nước
ngậm trong miệng để dập tắt, thì làm sao mà có kết quả? Đây không phải
là việc tốn công vô ích hay sao?
Chim Anh Vũ đáp rằng:
- Cứu lửa đó là điều mọi người nên làm hết trách nhiệm. Tuy sức tôi rất nhỏ, nhưng không thể không tận tâm, tận lực.
Lời nói của chim anh vũ rất bình thường, nhưng tráng chí của nó thật vĩ
đại. Tinh thần dũng mãnh, thấy khó khăn không lui bước này đã khiến
thần lửa cảm động sâu xa, nên đã dập tắt đám cháy đó giùm chim anh vũ.
Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương có tất cả sáu chương nói về người học đạo
nên tinh tấn như thế nào. Tinh tấn được chia làm ba loại:
Phi giáp tinh tấn.
Nhiếp thiện pháp tinh tấn.
Lợi lạc hữu tình tinh tấn.
Sao gọi là phi giáp ( mặc áo giáp ) tinh tấn? Kinh Tứ Thập Nhị Chương
nói: Người học đạo như kẻ chiến đấu với vạn người, mặc áo giáp ra trận,
nếu ý khiếp nhược sẽ giữa đường thoái lui, hoặc chiến đấu đến chết. Nếu
tinh tấn dũng mãnh, không sợ gươm đao, thì dấn thân vào chỗ chết để tìm
ra đường sống, phá diệt các ma, mà được đạo quả. Cho nên, mặc áo giáp
tinh tấn là nói người tu phải có tinh thần chiến đấu với các ác pháp.
Thế nào là nhiếp thiện pháp tinh tấn?
Mặc áo giáp tinh tấn là trừ ác, nhưng tinh tấn còn phải hoàn thành
thiện pháp, đây gọi là nhiếp thiện pháp tinh tấn. Không luận người xuất
gia hay tại gia, khi tu tập thiện pháp không nên quá gấp, cũng không nên
quá chậm, cốt yếu vừa chừng là tốt. Gấp quá thì bị sức phản động mà lui
sụt. Chậm quá thì do giải đãi mà thoái đọa. Như gảy đàn, dây đàn chùng
thì âm thanh không vang đúng mức, dây căng quá sẽ dễ đứt. Vì vậy, việc
tu thiện pháp không nên quá chậm, cũng không nên quá gấp. Gấp hay chậm
đều là sai lầm, đệ nhất nghĩa trong Phật Pháp chính là trung đạo!
Thế nào là lợi lạc hữu tình tinh tấn?
Người học Phật phải phát tâm đại từ bi, độ khắp chúng sinh. Nhưng chúng
sinh trong tam giới vô lượng vô số, nếu không tinh tấn làm sao thực
hiện được chí nguyện độ sinh? Ta phải có tâm từ bi vô hạn, có chí độ
sinh vô cùng, thì mới có thể tinh tấn không thoái lui.
Chúng ta
trên bước đường tu học, thường hay mắc phải chứng bệnh: Căn thân mệt
mỏi, tâm thức phóng túng! Đây là do chưa nhận thức rõ thời gian và sinh
mệnh trân quí biết chừng nào. Chúng ta sống trong dòng thời gian, nghĩ
rằng: Ngày nay trôi qua vẫn còn ngày mai; năm nay không làm, còn có năm
sau; tuổi trẻ không tu, hãy còn lúc gia, vì vậy mới luống qua thời gian,
dần dà hết kiếp! Không ngờ, kết quả do thói quen giải đãi, ỷ lại này,
khiến ta phải chịu đọa lạc, khổ đau!
Chúng ta nếu biết sinh
mệnh là trân quí, thời gian qua rồi không trở lại, thì phải luôn khắc
ghi trong tâm hai chữ vô thường, không một giây phút chần chờ, không một
ý niệm xao lãng, trực tâm hướng về chính đạo.
Thuở xưa, đức Phật hỏi các đệ tử:
- Mạng người trong bao lâu?
Một đệ tử đáp:
- Trong vài ngày!
Đức Phật lắc đầu bảo:
- Ông chưa hiểu đạo.
Ngài lại hỏi một vị khác:
- Mạng người trong bao lâu?
- Mạng người trong khoảng bữa ăn.
Phật cũng lắc đầu bảo:
- Ông chưa hiểu đạo!
Rồi Ngài lại hỏi một vị khác:
- Mạng người trong bao lâu?
Vị này đáp:
- Mạng người trong hơi thở!
Đức Phật vô cùng hoan hỉ, khen rằng:
- Lành thay! Ông hiểu được đạo!
Người biết giác ngộ mạng sống trong khoảng hơi thở, thì đôí với việc tu
đạo, hành thiện sao dám giải đãi? Đối với việc tu đạo hành thiện, nếu
không nỗ lực tinh tấn, làm sao có thể thành tựu? Tinh là chuyên ròng
không tạp; tấn là tiến mãi không lui. Mục đích của tinh tấn là phá phiền
não ác, hàng phục bốn ma, ra ngục ấm giới.
Trời đất lâu dài có
lúc hoại, phiền não miên man không tận cùng! Phiền não vô minh vốn câu
sinh với ta, nằm sẵn trong tâm, khiến chúng sinh không thoát khỏi luân
hồi, sinh tử. Học Phật, việc lớn nhất là phá phiền não ác. Phiền não là
chỉ phiền tâm va não thân. Phiền não còn nguy hiểm hơn oán tặc, cường
đạo, thổ phỉ. Cổ nhân bảo: Bắt giặc trong núi dễ, dẹp giặc trong lòng
kho. Cuộc sống bất an, đau khổ, đều do phiền não gây ra cả!
Phật Pháp có tám muôn bốn ngàn Pháp môn là để đối trị tám muôn bốn ngàn
phiền não. Lấy bất tịnh quán để đối trị tham dục, lấy từ bi đối trị sân
hận, lấy vô ngã đối trị kiêu mạn, lấy chánh tín đối trị nghi hoặc, lấy
chánh kiến đối trị tà kiến. Phiền não tóm lại có sáu loại căn bản: tham,
sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Ngoài sáu loại căn bản phiền não này ra,
còn có hai mươi loại tùy phiền não.
Căn bản phiền não như rễ
cây, nó là gốc rễ của tất cả phiền não. Trong hai mươi tùy phiền não,
lại chia ra có mười tiểu phiền não, hai trung phiền não và tám đại phiền
não. Mười tiểu phiền não là: phẫn nộ, cừu hận, kết oán, giả dối, gian
trá, siểm khúc, ngạo mạn, bách hại, tật đố, tự tư.
Hai trung phiền não là: vô tàm, vô quí.
Tám đại phiền não là: bất tín, giải đãi, phóng dật, hôn trầm, trạo cử, thất niệm, tán loạn, bất chánh tri.
Chúng ta sở dĩ không nhận ra được bản tánh chân như của mình, là do
phiền não che lấp ánh sáng tâm thể. Chúng ta sống trong nguy hiểm, lo
sợ, là do phiền não nhiễu loạn. Cội gốc của tất cả phiền não chính là
ngã chấp. Chúng sinh do chấp ngã nên tất cả phiền não mới dấy khởi. Cho
nên cổ đức nói: Muốn học Phật Pháp, trước hết hãy vô nga. Tu chứng được
cảnh giới vô ngã, cũng chính là đạt được cảnh giới không còn phiền não.
Ngã chấp đây là căn bản của phiền não sinh tử. Vô ngã là điều khó thực
hiện biết bao! Ngã chấp không trừ, thì phiền não ác không thể phá được.
Cách phá phiền não ác là trước phải tu tập ba môn vô lậu học: giới –định
– tuệ, kế nữa là niệm Thánh hiệu Phật A Di Đà thì phiền não ác sẽ từ từ
được phá trừ, bản lai diện mục của chúng ta dần dần được hiển lộ.
Phiền não phá rồi lại còn phải hàng ma. Những gì có thể làm hư hoại
thiện căn, dứt mất tuệ mạng của chúng sinh, đều gọi là ma. Những chướng
ngại, nhiễu loạn, phá hoại, dụ hoặc hay cướp đoạt tuệ mạng đều gọi là
ma. Ngoại cảnh có ma: sắc thanh danh lợi; trong tâm có ma: tham sân
phiền não. Không có tinh thần hàng phục ma thì không thể tu đạo. Ma có
mặt khắp mọi nơi, nhưng nguy hiểm nhất lại là ma ẩn tàng ngay trong tâm
chúng ta! Trong các tu viện lớn, tượng Bồ tát Vi Đà tay cầm chày hàng ma
đứng mặt ngó vào mình, cho thấy hàng phục nội ma quan trọng hơn hàng
phục ngoại ma!
Phật giáo suy vi, những vị mang tâm niệm tiếp
nối làm hưng thịnh hạt giống Phật, khiến Chánh Pháp cửu trụ Ta bà, thật
hiếm có người! Còn hạng mặc áo Phật, ăn cơm Phật, mượn danh là đệ tử
Phật để mua bán Như Lai, thì ma con, ma cháu rất đông. Làm người con
Phật chân chánh, ngày nay phải có tinh thần khiêu chiến với ma! Thời mạt
Pháp, cách Thánh lâu xa thì Phật cao một thước, ma cao một trượng! Mong
rằng đệ tử chánh tín của Phật thời nay phải học theo Bồ tát Vi Đà, tay
cầm chày hàng ma, tuân theo lời dạy Kinh này để hàng phục tất cả ma quỷ
chướng đạo!
Kinh văn nói: Hàng phục bốn ma. Bốn ma đó là:
1.Phiền não ma: Đây là chỉ tập khí tham sân si v.v… làm não hại thân tâm.
2. Ngũ ấm ma: Đây là chỉ năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức hay sinh ra tất cả đau khổ.
3. Tử ma: Đây là chỉ sự chấm dứt mạng căn sinh tồn của chúng sinh.
4. Thiên ma: Đây chỉ thiên ma ngoại đạo làm hư hoại thiện căn của chúng sinh, như ma vương ở cõi trời Tự tại dục giới.
Trong Tiểu Chỉ Quán và Khởi Tín Sớ v.v…, đều nói cách hàng phục bốn ma
là trì niệm Thánh hiệu đức Phật A Di Đà, hay xưng niệm tam quy, ngũ
giới, hoặc tụng Bát Nhã Tâm Kinh. Đức Phật Thích Ca khi ngồi trên tòa
Kim cang dưới cội Bồ đề, trước phải hàng phục ma, rồi sau mới thành đạo!
Phiền não khiến chúng ta gây tạo tội ác đã phá trừ; ma chướng làm nhiễu
loạn đạo nghiệp của chúng ta đã hàng phục, thì có thể ra khỏi luân hồi
sinh tử, giải thoát lao tù ngũ ấm, tam giới!
Ngũ ấm là chỉ sắc
thân do ngũ uẩn hòa hợp của loài hữu tình. Ấm có nghĩa là che ngăn, vì
sắc thọ tưởng hành thức thường ngăn che chân như Phật tánh của chúng hữu
tình. Tam giới chỉ dục giới, sắc giới và vô sắc giới.
Ngũ ấm
là chỗ tụ họp của các khổ, ba cõi như ngôi nhà đang bốc cháy. Thân tâm,
thế giới đều vô thường không thật, như lao ngục không thể nương cậy.
Phải phá phiền não ác, hàng phục bốn ma, mới có thể ra khỏi ngục ấm
giới!
Chúng sinh phải tinh tấn tu đạo, không được giải đãi,
buông xả thân năm ấm, ra khỏi nhà ngục tam giới, chứng đắc pháp thân
thường trú, an nhiên tự tại, mới là cảnh giới an ổn, giải thoát, quang
minh!
Dịch Thơ:
Điều thứ tư phải luôn ghi nhớ
Lười biếng làm lỡ dở đạo tâm
Quen theo thói tục lạc lầm
Đắm mê sa đọa trong hầm khổ đau.
Nên thường phải dồi trau tinh tấn
Dũng mãnh tu phá những não phiền
Bốn ma hàng phục bình yên
Khỏi ngục ấm giới về miền chân như.
(Trích KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC
Hán dịch: Đại Sư An Thế Cao
Giảng: Đại sư Tịnh Vân
Việt dịch: Thích Minh Quang)