Thiền sư Phật Ấn Với Tô Đông Pha
Tô Ðông Pha, quan Hàn Lâm học sĩ triều Tống, nổi tiếng
là người học rộng nghe nhiều, tài hoa lỗi lạc. Ỷ tư chất thông minh,
ông xem mọi người dưới tầm con mắt, thường làm những bài văn với tính
cách trào lộng để mai mỉa tình đời. Ðối với đạo Phật, ông lại còn tỏ ra
thái độ khinh rẻ, không tin, thẳng lời bài bác.
Một độ, nhân đi phó nhậm ở Chiết Giang, nghe danh sư
Phật Ấn ở đỉnh Vân Cư là bậc học thông ba tạng, Tô Ðông Pha liền nảy ra ý
định đến viếng cửa thiền, mục đích để trêu chọc lão Hòa Thượng này
chơi. Ðến đây tôi xin tạm dừng câu chuyện thăm viếng ấy lại, để lược
thuật cho quí vị biết tướng mạo và hành vi của vị tăng ở núi Vân Cư ra
thế nào?
Phật Ấn thiền sư, vóc người cao lớn, mập mạp. Trên mặt
ngài luôn luôn nở nụ cười, mỗi khi tiếp chuyện với khách. Về ngôn ngữ,
Sư nói rất trôi chảy tài tình, khiến cho người đối thoại phải lặng thinh
khâm phục. Sư có nhiều hành động khác thường, đến như rượu thịt là giới
cấm trong nhà Phật, sư cũng không từ. Nhưng với bao nhiêu cử chỉ ấy,
tất cả Tăng đồ và tín đồ thời bấy giờ không ai dám bài bác, và nhận thấy
ở nơi sư có một cái gì siêu phàm hay làm cho người đời tỉnh ngộ, mà kẻ
dung thường không thể bắt chước. Cho nên, hành vi khác lạ của sư được
nhiều người ghi chép bằng nhiều bài thi, trong ấy có những câu:
"Viễn Công cô tửu yêu Ðào Lịnh,
Phật Ấn thiêu trư đãi Tử chiêm"
(Ngài Huệ Viễn mua rượu mời Ðào Uyên,
minh sư Phật Ấn nướng thịt đãi Tô Tử Chiêm).
Ðây là hành vi của bậc đại triệt, đại ngộ, tùy cơ giáo
hóa. Những vị tăng sĩ nào chưa được như thế, không nên khen ngợi bằng
lối bắt chước, cũng đừng vội chê bai.
Xin tiếp tục câu chuyện trước. Khi Tô Ðông Pha đến non
Vân, sư Phật Ấn còn đang ngồi tịnh trong phương trượng, nghe thị giả
thưa:
-"Có quan Hàn Lâm học sĩ đến"
Sư vui vẻ chào hỏi và mời khách ngồi. Sau khi đáp lễ xong, Tô Ðông Pha liền mở lời vấn nạn:
- Bạch Hòa Thượng! Xin cho tôi hỏi một câu:
- Vâng, tôi cũng xin tùy chỗ hiểu biết để hầu chuyện cùng ngài.
- Bạch, tôi muốn mượn thân tứ đại của Hòa Thượng làm tòa ngồi, có được chăng?
Một nụ cười nở trên môi, Phật Ấn thiền sư đáp:
- Nếu bần đạo trả lời không suông, xin theo tôn ý, bằng trái lại, ngài sẽ tính thế nào?
- Tôi xin đem chiếc đai ngọc, một vật quí của vua ban cho, để đáp tạ Hòa Thượng.
- Bần đạo tứ đại vốn không, ngũ uẩn chẳng có, vậy ngài lấy chi làm tòa ngồi.
Tô Ðông Pha sửng sốt hồi lâu, không trả lời được, đành
phải mở đai ngọc giao cho Phật Ấn thiền sư. Sư thâu nhận, rồi bảo thị
giả vào trong đem chiếc áo bá nạp ra tặng cho quan Hàn Lâm học sĩ. Tô
Ðông Pha gắng gượng tiếp lấy và làm bài kệ trình lên rằng:
Căn tối đành ngơ trước máy thần
Nặng vì thân bịnh vướng đai cân!
Muốn khuyên khất thực nhà ca kỹ?
Nên mới nhường cho áo núi Vân.
Ðoạn, hai người cùng nhau tiếp chuyện rất thân mật.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Từ khi được gặp Phật Ấn thiền sư và sau mấy phen ngài
chiết phục, Tô Ðông Pha trở nên bạn thân của vị Tăng phi thường ấy.
Trong thời gian đó, ông lại được quen với một vị sư khác: ngài Hoành Sơn
Cốc. Khi rảnh việc Tô Ðông Pha thường mời hai bạn đến nhà thết tiệc
khoản đãi, hoặc cùng đi dạo ở những nơi thắng cảnh. Nhưng, trong ba
người, chỉ có sư Phật Ấn là mạnh ăn nhất. Vì thế, Tô Ðông Pha, Hoành Sơn
Cốc thường bị cụt hứng và thường chịu lép trong những cuộc vui.
Một hôm, Ðông Pha bảo người nhà sửa sang con thuyền và
sắm sẵn gỏi ngon rượu tốt, rồi mời riêng Sơn Cốc thiền sư cùng mình mở
cuộc lãng du trên dòng nước. Không dè ngài Phật Ấn hay được việc ấy, lén
đến mé sông trước, và dở ván ngồi lẳng lặng dưới khoang thuyền. Sơn
Cốc, Ðông Pha đến sau thờ ơ không hay biết chi cả, bảo trạo phu gay chèo
để phát khởi cuộc du trình.
Lúc ấy nhằm ngày rằm. Hoàng hôn đã trở về từ lâu nên
mặt sông thu yên tĩnh. Vào khoảng đầu hôm, chị Hằng lộ dáng đứng trên
dãy non Ðông, như bàng hoàng giữa vầng Ngưu Ðẩu. Hàng cây bên bờ sông in
bóng dài trên bãi cát. Một ngọn gió mát từ đâu thoảng lại, thổi phất
phơ tà áo vị thiền sư trí tuệ và trang học sĩ tài hoa. Thuyền từ từ tách
khỏi bến ra giữa lòng sông, thả suôi theo dòng nước. Ði không lâu,
chiếc du thuyền rẽ vào một mặt hồ to rộng, bao la. Bấy giờ, những thức
ăn uống được sắp bày trên thuyền, dưới gương nga tỏa sáng. Trước khi
nhập tiệc, Ðông Pha bảo Sơn Cốc:
-"Chúng ta mỗi người hãy làm bốn câu thi tức cảnh, hai
câu sau lấy trong sách Tứ thơ và kết cuộc bằng chữ "tai". Nếu ai làm
không được phải bị phạt ba chén rượu. Và, bước đầu tôi xin nhường cho
Ngài”.
Lộ vẻ tươi cười, thiền sư đáp:
-"Thế thì còn chi thú vị bằng! Tôi xin lĩnh ý".
Bấy giờ con thuyền đang từ từ rẽ nước. Cánh bèo theo
gợn sóng tan ra, lộ dáng mấy con cá lội thấp thoáng. Sơn Cốc trông thấy
liền ngâm:
Phù bình bác khai
Du ngư xuất lai
Ðắc kỳ sở tai!
Ðắc kỳ sở tai!
(Bèo nổi tan ra,
Dáng cá lội qua
Phải cảnh nó a!
Phải cảnh nó!).
Ðông Pha vỗ tay khen:
-"Hay! Hay lắm! Thật là tuyệt!"
Rồi, vẻ mặt trầm ngâm ông nhìn khắp chung quanh để tìm
câu gợi tứ. Chợt trông lên trời thấy áng mây trắng bay qua để lộ màu
thỏ bạc, ông liền đọc:
Phù vân bác khai
Minh nguyệt xuất lai
Thiên hà ngôn tai?
Thiên hà ngôn tai?
(Mây nổi qua mau,
Trăng tỏ lộ màu
Trời nào nói đâu,
Trời nào nói đâ?)
Sơn Cốc cũng vỗ tay khen:
-"Mấy câu vừa rồi ý nghĩa siêu thoát lắm! Không biết ngài có nhận được mùi thiền trong ấy chăng?”.
Ðông Pha không đáp, yên lặng tủm tỉm cười. Ðoạn, hai
người cùng rót rượu để tán thưởng cho nhau và sắp sửa vào tiệc. Nhưng,
Phật Ấn thiền sư đã dở ván, từ dưới khoang thuyền chun lên, vừa đọc lớn:
Phù bản bác khai
Phật Ấn xuất lai
Nhơn yên sưu tai?
Nhơn yên sưu tai?
(Ván lót dở cao,
Phất Ất ra mau
Người giấu được nào?
Người giấu được nào?).
Ðọc xong sư điềm nhiên ngồi chễm chệ trước tiệc, quơ
đũa không mấy chốc, thức ăn đã hết sạch. Sơn Cốc và Ðông Pha dở khóc dở
cười, nhìn nhau ngơ ngẩn.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Những việc trớ trêu tương tự như thế, thường xảy đến
với Tô Ðông Pha, nhưng cũng do đấy, ông càng nghĩ càng khâm phục sư Phật
Ấn.
Khách đa tài phần nhiều hay đa tình, Ðông Pha có bảy
người thiếp rất đẹp. Một hôm, trong cơn đàm thoại, Phật Ấn thiền sư bảo
ông rằng:
-"Tôi nghe ngài có nhiều thê thiếp, mà tôi lúc này
thiếu người hầu hạ, không biết ngài có vui lòng cho tôi mượn một nàng
không?"
Ðông Pha cười nói:
-"Hòa Thượng đã muốn, tôi đâu dám chẳng vâng lời".
Sau khi về đến nhà Ðông Pha cho gọi thiếp thứ bảy ra bảo:
-"Hôm nay, Phật Ấn thiền sư hỏi tôi mượn một cô hầu. Vậy nàng hãy sửa soạn để đi đến chùa cho sớm".
Người thiếp tỏ vẻ không bằng lòng, thưa:
-"Ông ấy đã tu hành, sao còn nói gở như thế?"
Ðông Pha bảo:
-"Người quân tử đã hứa, tất phải nhớ lời. Nàng nên vì tôi chịu phiền đi đến xem Hòa Thượng sử sự ra sao?"
Khi người thiếp đến chùa, Phật Ấn thiền sư ra tiếp,
đưa vào cho an nghỉ một phòng. Ðoạn, sư bắt bảy cái lò gần đấy, quạt lửa
than cháy đỏ rồi suốt đêm bước qua bước lại trên lò. Sáng ra, thiền sư
bảo xa phu gác xe đưa mỹ nhân trở về. Sau khi về đến nhà, người thiếp
thuật rõ lại hành vi của sư Phật Ấn trong đêm vừa qua. Ðông Pha nghe
xong, thầm nghĩ:
-"Ðây chắc là thiền sư ngụ ý bảo: ta có bảy nàng hầu
như bảy lò lửa, hành vi bước qua có phải tỏ rằng mình đã thoát khỏi vòng
ái dục rồi chăng?"
Nghĩ đến đó, ông dường như tỉnh ngộ.
Về sau, do sự hóa độ của Phật Ấn thiền sư, Tô Ðông Pha
lần lần hồi tâm trở về với đạo Phật. Khi lớn tuổi, ông mướn thợ vẽ một
bức tượng A Di Ðà, đi đâu thường mang theo mình. Có ai hỏi, ông đáp:
-"Bức tượng này là công cứ của tôi đấy".
Giữa Phật Ấn và Ðông Pha còn lắm đoạn kỳ quan. Theo
lời truyền thuyết ở các sách tàu, Tô Ðông Pha là thân sau của giới thiền
sư, cũng là bạn đồng tu học của vị tăng núi Vân Cư từ kiếp trước. Trong
tiền thân Phật Ấn thiền sư đã đắc đạo. Ngài tái sanh làm vị tăng với
mục đích nhắc nhở người bạn tiền duyên trở lại con đường giác ngộ. Ðiều
này, nên tin hay không ở đây không thành vấn đề bàn luận. Chúng ta chỉ
nên biết rằng hành vi của ngài Phật Ấn không những có ý nghĩa với Tô
Ðông Pha, mà với tất cả bao nhiêu người đồng tâm trạng, cảnh ngộ như
ông.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Một hôm, Tô Ðông Pha sáng tác được một bài thi mà ông
rất hài lòng, ông bèn cho đem tặng Phật Ấn thiền sư ở chùa Kim Sơn. Thay
cho lời khen mà ông Tô Ðông Pha mong ước, thiền sư lại phê hai chữ
"phóng thí" (*) Ức lòng, Tô Ðông Pha bương bả vượt sông đến Kim Sơn bắt
lỗi. Thiền sư lấy bút sửa câu chót, làm cho Tô Ðông Pha dở khóc dở cười.
Nguyên văn bài thi của tô Ðông Pha như sau:
Khể thủ thiên trung thiên.
Hào quang chiếu đại thiên.
Bát phong xuy bất động.
Ðoan tọa tử Kim liên.
Làm để xưng tụng Ðức Phật, bài thi ấy thật rất hay,
nhưng thiền sư biết tác giả chỉ là người múa văn, chơi chữ, chứ không
phải người thâm nhập Phật lý đến mức thực chứng cảnh giải thoát "Bát
phong xuy bất động", nên thiền sư phê hai chữ "phóng thí" để trêu. Quả
như thiền sư tiên liệu: Tô Ðông Pha đã nổi nóng, vượt sông đến hỏi.
Nhưng sau khi thấy thiền sư sửa câu chót thành "phóng thí đã quá giang",
Tô Ðông Pha hổ thẹn vì đã để cho một cái "Lỡ trôn đánh bay ngang sông".
Ðông Pha bái phục ra về, không nói được một lời... (**)
Tám gió (bát phong) là chỉ những cái ưa ghét của người
đời, hễ một trong những cái ấy đến thì lòng người bị xao xuyến, như gió
thổi nước lay. Tám gió ấy là:
1. Lợi, 2. Suy (tổn thất), 3. Hủy (chê),
4. Dự (khen), 5. Xưng (phong tặng), 6. Cơ (nói xấu), 7. Khổ (cay đắng),
8. Lạc (vui).
"Rồi đây nguyện được như lời
Thuyền từ một chiếc thảnh thơi giữa dòng
Hỡi những ai còn trong bể khổ
Hãy nương thuyền tế độ mà qua
Bến mê vượt khỏi ái hà
Lên bờ giải thoát mới là an vui..."
* Thí: có nghĩa là lỡ trôn nếu nói theo trong Nam, hay trung tiện nói theo Bắc, Trung.
** Bài thi của Tô Ðông Pha có nghĩa: Cúi đầu làm lễ
Thần của các vị Thần mà ánh sáng chiếu khắp tam thiên đại thiên thế
giới, là đấng mà "tám gió" thổi không lay và đang ngồi trên hoa sen vàng
tía.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Một hôm, Tô Đông Pha đến chùa Kim Sơn chơi với Thiền sư Phật Ấn cả ngày. Hai người đối nhau luận Thiền, Đông Pha hỏi Phật Ấn:
- Ngài thấy tôi thế nào?
Phật Ấn đáp:
- Rất trang nghiêm, giống một ông Phật!
Tô Đông Pha nghe nói vô cùng phấn khởi. Phật Ấn lại hỏi Tô Đông Pha:
- Ông thấy ta ra sao?
Đông Pha thấy Phật Ấn mập tròn, lại mặc áo đen, bèn đáp ngay:
- Giống một đống phân bò!
Phật Ấn không nói gì. Đông Pha cho rằng mình đã thắng một keo, lòng rất sung sướng, về nhà hớn hở nói với Tô tiểu muội:
-
Này muội muội, hồi nào tới giờ anh bị Ấn lão cho đo ván mãi, đấu không
lại ông ta. Không biết hôm nay Hòa thượng trở cờ hay học sĩ này gặp
may mà Ấn lão không còn lời để nói, không có lý để trình đấy.
Nói
rồi bèn thuật lại chuyện luận chiến vừa qua. Tô tiểu muội thiên tư hơn
người, tài hoa xuất chúng, nghe ca ca kể xong câu chuyện, liền nói:
- Xì, anh thua đậm rồi!
Đông Pha tức quá mắng :
- Ta làm sao lại thua? Nếu ta thua sao ông ấy không nói một lời nào?
Tô tiểu muội nói:
- Này ca ca, tôi xin hỏi anh, Phật quý hay phân bò quý?
Đông Pha nói:
- Đương nhiên là Phật quý rồi!
Tô tiểu muội nói:
-
Phật là Ấn lão thấy, còn phân bò là anh thấy, thế có phải là anh bị
đánh úp không? Ấn lão đắc thắng hoàn toàn, còn gì để nói nữa!
Đông Pha nghe tiểu muội nói thế, như bong bóng xì hơi, biết rằng bị rơi vào tròng của Phật Ấn, thua một keo nặng.
CHUYỆN CHUYỂN KIẾP CỦA TÔ
ĐÔNG PHA VÀ THIỀN SƯ PHẬT ẤN
Vọng
tưởng có hai phần: thô và tế. Vọng tưởng thô ai cũng biết, bởi hành tướng
nó rất rõ ràng. Còn vọng tưởng vi tế, người tu già dặn cũng phải e ngại.
Người
mới tu, chỉ có thể nhận biết được các vọng tưởng thô, khó lòng phát hiện
được các vọng tưởng vi tế. Ví như một ao nước đục, khi bọt nổi lên mặt ao
ta mới nhận thấy. Còn phần bọt nhỏ nhẹ từ dưới đáy ao, muốn thấy rõ nó,
cần phải có một ao nước thật trong. Người tu hành lâu (thiền định hay các
pháp môn khác), đến trình độ nước tâm trong lặng mới thấy biết được vọng
tưởng vi tế.
Bạch
Thánh pháp sư, một buổi sáng từ nơi giường bước lại ghế ngồi, trong khoảng
chừng ba giây đồng hồ, đã phát giác trong tâm mình nổi lên đến vài mươi
vọng niệm sai biệt. Chừng ấy ngài mới chứng minh được lời nói trong kinh:
"Một niệm có chín mươi sát na, một sát na có chín trăm sanh diệt." Đây là
vọng tưởng thuộc loại vi tế.
Quang
Huệ và Giới Diễn là hai vị thiền sư đều ngộ Đạo. Một hôm trong khi đồng
ngồi thiền, nơi tiềm thức của ngài Giới Diễn thoạt nổi lên một niệm sắc
ái, ngài liền diệt trừ; song bên kia Quang Huệ thiền sư đã hay biết. Sau
khi xuất định, ngài Quang Huệ làm bài kệ có ý trêu cợt ngài Giới Diễn.
Giới Diễn thiền sư buồn thẹn, liền thâu thần nhập diệt.
Ngài
Quang Huệ hối hận, gọi đệ tử đến phó chúc rằng: "Bạn ta trong khi thiền
định có một niệm sắc ái, sau tất lụy về sắc; vì phiền ta mà thị tịch, sau
sẽ phá hoại Tăng bảo. Lỗi ấy một phần do ở nơi ta, nếu ta không theo hóa
độ, tất sẽ mang lấy hậu quả!"
Dặn dò
xong, ngài cũng viên tịch theo luôn. Sau, Quang Huệ chuyển thân làm thiền
sư Phật Ấn; Giới Diễn chuyển kiếp làm Tô Đông Pha. Đông Pha do kiếp trước
có tu nên làm quan to trong triều, thông minh trí tuệ mà cũng đa tài đa
tình. Ông có đến bảy người thiếp, và thường đem sự thông minh bác lãm của
mình mà vấn nạn các vị thiền sư. Về sau Tô Đông Pha bị ngài Phật Ấn chiết
phục, ông mới quay lại đường tu.
Cho nên
vọng tưởng vi tế, người tu lâu cũng phải e ngại là thế. Tiên đức có câu:
Công phu
không thiếu cũng không dư,
Muôn kiếp
tham si chữa dễ trừ!
Vậy
người tu khi có chút cảnh giới tốt chớ vội khoe khoang tự đắc, phải nhìn
gương ngài Giới Diễn; và cũng đừng vội tự thị chê bai kẻ khác, mà phải xem
gương Quang Huệ thiền sư.
(Sưu tầm)