Thứ Bảy, 13 tháng 4, 2013

Thế gian thường hay chú tâm vào việc nhỏ, bỏ việc lớn

Photo: Thế gian thường hay chú tâm vào việc nhỏ, bỏ việc lớn (HT. Thích Thanh Từ giảng)
*********************
Ðề tài tôi nói hôm nay rất bình dân Người đời việc ít quan trọng dồn hết tâm lực lo, việc tối quan trọng lại lơ là.  Tất cả chúng ta có mặt trên thế gian này, đều do không sáng suốt nên thường lầm lẫn, những điều không quan trọng hay ít quan trọng, chúng ta dồn hết tâm lực để lo, còn những điều tối quan trọng lại không để ý, không màng tới. Tôi sẽ tuần tự giảng giải điều này cho tất cả thấy rõ.

Như cuộc sống hiện giờ có ba việc ăn, uống, thở, trong đó chúng ta lo việc nào nhiều nhất? Thường người ta lo ăn nhiều nhất. Tối ngày chạy lo ăn, nhưng thật ra nếu nhịn ăn mấy ngày có chết không? Không chết. Kế đó là uống, nhịn uống hai ba ngày mới chết. Ðến thở, nhịn bao lâu chết? Trong tích tắc, thở ra mà không hít vô là chết. Vậy mà người ta lại quan trọng ăn với uống, còn thở ra sao thì không biết. Rõ ràng việc tối quan trọng lại lơ là, còn việc không quan trọng thì dồn hết tâm lực vào đó. Như vậy mới thấy cái lầm lẫn của chúng ta thật đáng thương.

Bước qua phần thứ hai, thân và tâm tức thể xác và tinh thần, cái nào quan trọng hơn? Chúng ta thường lo cho thể xác hay tinh thần? Thể xác lo cho sạch đẹp sung mãn, còn tinh thần thì không nghĩ tới. Nhìn chung con người chỉ nặng về thể xác mà xem nhẹ phần tinh thần, trong khi tinh thần điều khiển thể xác. Ví dụ từ trong nhà đi ra đường, ta khởi nghĩ trước rồi mới đi. Làm việc gì cũng vậy, khởi nghĩ trước rồi mới làm. Rõ ràng tinh thần chỉ huy mà chúng ta lại không quan tâm, chỉ quan tâm thể xác.

 Nhưng thử hỏi chúng ta lo cho thể xác được sung mãn, mà nó còn mãi không? Lo cho mấy nó cũng bại hoại. Lo nào nhà cửa, tiền bạc, cơm ăn áo mặc. nhưng khi nhắm mắt tất cả những thứ đó còn hay mất? Lo để ngày mai sẽ mất thì lo làm gì? Vậy mà chúng ta cứ lo, lo ngày lo đêm, lo hết sức là lo. Cái giữ không được mà dồn hết cho nó, còn cái chủ thúc đẩy chỉ huy lại không để ý, mặc tình nó ra sao thì ra. Như vậy chúng ta sáng suốt không? Ðó là vấn đề chúng ta cần phải xét lại để khỏi lầm lẫn.

Nếu nói tâm hồn hay tinh thần là cái chỉ huy, sắp đặt cho cuộc sống, thì chúng ta phải lo cho nó tốt đẹp, cao quí mới phải, còn thân tạm bợ này lo xoàng xoàng cũng được. Thế mà ta làm ngược lại. Ðó là điều rất sai lầm của đa số người thế gian.

Bây giờ nói tu là tu thế nào? Nhiều người bảo ăn chay, lạy Phật nhiều là tu. Ăn chay, lạy Phật cũng thuộc về phần thể xác, còn bộ chỉ huy thì không lo. Vì vậy tu cũng có nhiều cách. Tu bằng hình thức tạo phước tạo duyên, hoặc tu bằng cách lọc bỏ các vọng tưởng cho tâm được trong sáng thanh tịnh. Trong hai cách tu trên, cách tu sau mới là quan trọng. Bởi vì tâm là vị chỉ huy, nếu chỉ huy tốt thì thân miệng làm các việc tốt, cuộc sống theo đó quí đẹp. Còn tu về phần vật chất thì có phước, nhưng tâm còn phiền não thì không giải quyết được cội gốc vô minh sanh tử. Ðó là điều quan trọng người tu chúng ta cần phải biết.

Muốn xây dựng, muốn gạn lọc cho tinh thần được trong sáng, tốt đẹp thì phải quay lại xem xét mình. Tất cả chúng ta hiện giờ có ai không biết tham lam, nóng giận, si mê là xấu đâu. Biết thì biết mà không nỡ bỏ, cho nên Phật quở chúng sanh thật mê muội, rất đáng thương. Bình thường không việc gì thì thấy rất hiền lành, nhưng gặp việc trái ý liền nổi sân đùng đùng. Nóng giận như vậy đã là sai rồi mà còn bảo vệ cho cái giận của mình, tại thế này, tại thế nọ nên tôi mới giận. Ðã bảo vệ nó, thì làm sao bỏ được. Ít người nào giận mà nói lỗi tại tôi, lý đáng không nên như vậy, thật là xấu hổ. Không dám nhận lỗi là ngầm chấp nhận mình đúng người sai, nên không bao giờ chịu sửa đổi tật nóng giận của mình.

Con người thật là mâu thuẫn. Ðến với Phật hít hà lạy lục, mong cho con được sáng suốt, thanh tịnh. mà những thói xấu không chịu bỏ. Ðó là điều rất thực tế, Phật tử vẫn còn lúng túng. Tôi nói nóng giận là cái nổi nhất, còn tham lam, ngu si ngầm bên trong khó bỏ hơn nữa. Người tham lam có một triệu muốn hai triệu, có hai triệu muốn ba triệu, không dừng lại bao giờ. Có ít muốn nhiều, muốn hoài cũng không bao giờ thấy đủ.

Chúng ta tưởng tham không dính dáng gì sân, nhưng thật tình tham là cha đẻ của sân hận. Ví dụ ra chợ thấy món hàng vừa ý mình muốn mua. Nghe người bán nói năm trăm, mình trả ba trăm, người ta chưa chịu bán. Lúc đó có người trả bốn trăm, người ta bán. Vậy là mình nổi tức lên, rõ ràng giận từ tham mà ra. Ðó là những cái tham nhỏ, chưa phải trong tầm tay của mình, còn những cái tham trong tầm tay của mình. Ta quí ta thích nó, khi mất mình sẽ sân giận tới đâu nữa.

Thí dụ mình vừa sắm được cái lục bình vừa ý, bất thần đứa cháu sẩy tay làm rớt bể. Lúc đó cơn nóng đùng đùng nổi lên, mình la ó om sòm. Cái nóng giận đó do tham của quí, muốn giữ mà mất nên mình mới sân hận. Như vậy có thể nói tất cả sự nóng giận đều bắt nguồn từ lòng tham. Như ta muốn được khen, được danh thơm tiếng tốt mà bị người chê thì nổi nóng liền. Tham danh, tham lợi, tham tài, tham sắc, tham cái nào mà không được cũng dẫn đến sân hận cả.

Song lòng tham gốc từ si mê mà ra. Như mạng sống của chúng ta qua một ngày là mất một phần. Cuộc đời vô thường, ngày nay sống chưa chắc ngày mai đã còn. Người thấy được lý vô thường là thấy được lẽ thật. Do vô thường, thở ra không hít lại là chết, mạng sống này đâu có bảo đảm dài lâu. Nhưng nghe ai nói ngắn, thì mình buồn, mình cự lại. Còn nghe nói dài, sống đến trăm tuổi là vui liền, như vậy không phải si mê là gì?        

Chúng ta thường sống với những ảo tưởng, mơ ước không có lẽ thật, đó là gốc từ si mê. Nếu ai nói mạng mình yểu ta liền xét biết, cuộc sống trong hơi thở không yểu sao được. Nói vậy, biết vậy thì cười thôi, không giận hờn ai. Vì không có trí tuệ, ta sống trong ảo tưởng, không đúng lẽ thật, nên sanh ra tham lam sân hận, đủ thứ phiền não che lấp tâm chân thật.

Từ si mê cho rằng đời sống cả trăm năm, rồi lo tạo dựng sự nghiệp không có ngày cùng, đến tắt thở cũng chưa rồi. Vì vậy mà cả một đời người mấy chục năm, chúng ta cứ lao vào hình thức vật chất, không nghĩ tới tâm tư của mình trong sáng hay tối tăm. Chúng ta không biết trau dồi tâm tánh của chính mình chút nào hết, mà lại đuổi theo những cái tạm bợ bên ngoài.

Ðời này tạo lập, xây dựng nếu lỡ chết đi thì tiếc nuối không bỏ được, nên rồi phải trở lại nữa. Thế nên Phật nói si mê là gốc của luân hồi, chúng sanh trở đi trở lại không giải thoát được, gốc từ si mê mà ra. Từ si mê chúng ta có đủ thứ sai lầm. Si mê về sự sống, si mê danh vọng, si mê sắc đẹp. Bởi nghĩ mình đẹp nên ai chê xấu thì giận, nghĩ mình khôn nên ai chê ngu thì giận. Người ta cứ tưởng tượng về mình, chớ sự thật chắc gì mình đẹp, chắc gì mình tốt, chắc gì mình khôn. Nhưng nghe khen thì vui, nghe chê thì không chịu. Như vậy có phải si mê không? Con người chịu hết khổ này tiếp nối khổ kia, không thoát được là vì thế.

Bây giờ nếu chúng ta biết rõ mạng sống vô thường, thân này không thật. Ta không là gì trong xã hội này cả thì có gì để tự hào, ngạo mạn. Nghĩ mình là rơm là rác, tự nhiên ta sẽ buông bỏ được những thứ tạm bợ quanh mình, sửa đổi những thói hư tật xấu thành ra tốt đẹp. Biết thân này không có giá trị chân thật thì sẽ không còn đắm luyến nó nữa, ta mới vươn lên tìm cái chân thật. Ðó là biết lo cái đáng lo, bỏ cái đáng bỏ.

Chúng ta kiểm lại ba điều: Một là mạng sống trong hơi thở. Hai là thân này hư dối tạm bợ, không có gì quan trọng. Ba là ta vẫn còn nhiều khiếm khuyết cần phải tu sửa. Nhớ như vậy, chúng ta sẽ tập trung vào việc tu dễ dàng, gạn lọc tâm trong sạch, thanh tịnh. Tịnh hóa được thân tâm rồi thì các thứ hình thức vật chất trong cuộc sống này không thể lôi kéo chúng ta được nữa. Ðó là một lẽ thật.

 Thật vậy, khi nhìn lại thấy thân này là đãy da hôi thối, giống như cái bô đậy kỹ, có ai đi ngang bịt mũi, mình sẽ cười nói tránh đường cho cái bô đi. Như vậy đâu có khổ. Rõ ràng lâu nay chúng ta sống trong mê lầm. Bây giờ phải gan lên, phải thấy được lẽ thật thì đời sống của mình mới an lành tự tại. Lúc nào cũng nhớ từ si mê sanh ra tham lam, từ tham lam sanh ra nóng giận. Ba thứ này là phiền não rất độc cần dẹp bỏ, chớ không thể nuôi dưỡng được.

Nhưng chúng ta có bệnh biết sai mà không can đảm sửa liền, cứ hẹn từ từ. Như vậy đòi tu mau ngộ đạo, mau thành Phật sao được! Bởi vì tu là phải dùng trí tuệ thấy đúng như thật, cái gì ảo tưởng phải chừa bỏ, như vậy mới hết gốc mê, hết mê mới hết khổ. Chúng ta không gan, không dám nhìn thẳng, không dám bỏ thì không bao giờ được an lạc giải thoát.

Khổ đau không phải từ đâu đem đến, mà tại chúng ta không sáng suốt, không có trí tuệ. Có người nghe Phật dạy đời là khổ, thân là vô thường, v.v. cho rằng Phật bi quan. Nhưng không ngờ thấy được lẽ thật đó sẽ cởi mở biết bao nhiêu việc, không còn đeo đẳng đau khổ nữa. Do không biết không nhận như vậy nên người thế gian đau khổ vô cùng, hết đời này tới đời khác không lúc nào hết buồn hết lo. 

Chúng ta thử nghiệm lại trên thế gian này, từ người giàu cho tới người nghèo, có ai không khổ đâu, có ai sống toàn là vui đâu. Mỗi người khổ mỗi cách, có người khổ vì thiếu thốn đói rét, có người khổ vì côi quả, có người khổ vì gia đình không hạnh phúc. ai cũng khổ, không có ai vui trọn vẹn. Vậy mà Phật nói cuộc đời là khổ thì bảo đạo Phật bi quan. Rõ ràng con người luôn chạy trốn sự thật.

Chúng ta phải dám nhìn vào sự thật mới có thể can đảm tiến lên. Biết cuộc đời vô thường để ngày nào, giờ nào mình còn sống thì cố tu tập, dẹp những thói xấu. Chỉ nhớ mạng sống trong hơi thở là hết tham ngay. Nhớ thân này nhơ nhớp thì bớt ngã mạn, tự nhiên ta trở về cuộc sống chân thật của mình. Ðó là người có trí tuệ sáng suốt.

Tu là rèn luyện trí tuệ cho được sáng suốt, được tốt đẹp, đó là điều tiên quyết. Thân này dầu sửa sang, lo lắng mấy nó cũng bại hoại, cũng chỉ là tấm thân hư thối thôi. Tất cả cái được đó đều là được để mất, chớ không phải được để còn mãi. Vậy mà chúng ta cứ cắm đầu lo thôi là lo, còn việc tẩy rửa gạn lọc cho tâm trong sáng, tốt đẹp thì ít quan tâm tới. Phần nhiều Phật tử đi chùa học Phật, chỉ muốn tu để đời sau sung sướng hơn, phước đức hơn, đẹp đẽ hơn, chớ không muốn thấy đúng lẽ thật, không muốn dứt si mê, giác ngộ giải thoát.

Trong nhà Thiền tu là gạn lọc nội tâm, giống như một khạp nước đục, chúng ta lóng xuống cho nó trong. Lóng lặng rồi thì nước trong, nhưng cặn bã vẫn còn dưới đáy khạp, nếu quậy lên thì chúng sẽ ngầu đục trở lại. Bây giờ muốn nó hoàn toàn trong, không có cặn cáu nữa thì phải lọc qua một khạp khác. Cũng vậy, tham sân si là cặn cáu, nó làm cho tâm trí mình mờ tối, bây giờ chúng ta phải lọc, phải gạn cho nó lắng xuống trước. Lắng xuống rồi phải lọc bỏ nó đi, lúc đó tâm mình mới trong sáng. Tâm hồn trong sáng tức không còn đau khổ nữa, còn tâm hồn tối tăm thì đau khổ không có ngày dứt được. Ðó là điều hết sức thiết yếu.

Chúng ta có hai thứ tâm, tâm sanh diệt tùy duyên và tâm thanh tịnh hằng sáng không mất. Khi chúng ta nghĩ xấu, nghĩ ác thì tâm đó luôn thay đổi hay nguyên vẹn mãi như vậy? Thí dụ có người nói trái ý, mình giận ghét họ, đó là tâm xấu. Nhưng thời gian sau họ làm gì vừa ý, mình liền vui vẻ, thương mến họ. Ðó là tâm sanh diệt tùy duyên. Duyên thuận thì nó tốt, nghịch thì nó xấu chớ không cố định. Ðã là sanh diệt tùy duyên thì không phải thật mình. Như vậy không ai cả ngày giận hoài, cũng không ai cả ngày ghét hoài. Thương, ghét, buồn, giận đều tùy duyên lộn qua đảo lại, không cố định. Vừa giận đó rồi thương, vừa ghét đó rồi mến, đổi thay luôn.

Phật dạy phàm những gì do duyên hợp đều hư giả, vậy mà chúng ta chỉ sống với cái giả, bỏ quên cái thật. Cả ngày đem hết sức lực để lo lắng, gìn giữ cái thân tạm bợ này. Ðến tâm tức tinh thần, chúng ta giữ phần hơn thua, phải quấy, tốt xấu, được mất cho đó là tâm mình. Tâm tôi nghĩ phải, tâm tôi nghĩ quấy, tâm tôi vui buồn, thương ghét. có rồi mất, không thường còn. Tâm không thật luôn sanh diệt như vậy mà bám vào đó chấp là mình, thành ra mất mình luôn. Có đáng thương không?

Phật bảo chúng sanh do ba nghiệp mà đi trong sanh tử luân hồi. Ba nghiệp là thân, miệng và ý. Khi ý nghĩ xấu thì miệng nói xấu, thân làm xấu nên nghiệp dẫn đi trong ba đường ác địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Nếu ý nghĩ tốt, thì miệng nói phải, thân làm phải nên nghiệp dẫn đi trong ba đường lành trời, người, a-tu-la.

Như vậy chánh nhân tạo nghiệp là ý, tức những thứ buồn thương giận ghét của chúng ta. Tâm đó là chủ tạo nghiệp, muốn tu giải thoát sanh tử mà bám vào nó thì không bao giờ giải thoát được. Chỉ là phước báu hoặc tội nghiệp, dẫn đi trong đường lành hoặc đường dữ thôi.

Ban đầu, chúng ta tu thì tập bỏ những thứ xấu ác, sau đó đến các thứ tốt thiện cũng phải bỏ luôn. Nhưng thường không ai bỏ cái tốt cả, uổng lắm cho nên được sanh cõi lành, thành ra cũng quanh quẩn ở sanh tử thôi. Chúng ta chưa tìm ra cái thật mình, thì chưa thể được an vui vĩnh viễn. Cái thật đó Lục Tổ nói "Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?" Vậy khi tâm hằng tri, hằng giác mà không có niệm thiện ác lôi cuốn, lúc đó mình đi đâu? Không tạo nghiệp là giải thoát sanh tử, còn đi đâu nữa.

Chúng ta ai cũng sẵn có cái không tạo nghiệp, không bị nghiệp dẫn mà không chịu nhận, cứ nhận cái tạo nghiệp, cái sanh tử là mình rồi khỏa lấp cái mình thật. Bản lai diện mục tức là mặt thật xưa nay của mình, nó bị khỏa lấp bởi niệm thiện, niệm ác. Chừng nào những niệm đó lặng sạch thì mặt thật xưa nay hiện tiền. Vậy lúc niệm thiện ác chưa lặng sạch thì mặt thật kia ở đâu?

Bình thường chúng ta thấy biết tất cả mà không khởi niệm phân biệt, cái thấy biết đó không động. Nó luôn hiện tiền nhưng mình vừa khởi phân biệt thì nó khuất đi, chớ không phải mất, không phải thiếu vắng bao giờ. Chúng ta chạy theo niệm sanh diệt thì cái chân thật ẩn khuất, khi nào dừng lặng các niệm sanh diệt thì nó hiện bày. Cho nên các Thiền sư thường nói "Tại ông không nhận, chớ không phải không có".

Có ai không thấy, không nghe, không biết. Thấy, nghe, cảm giác biết hết nhưng ở giai đoạn đầu chưa khởi niệm phân biệt tốt xấu, hơn thua thì cái biết chân thật không sanh diệt. Khi tâm khởi niệm phân biệt là chuyển sang cái biết sanh diệt rồi. Thấy cứ thấy, nghe cứ nghe, có người nào thiếu đâu, nhưng ai cũng than kiếm không ra Phật tánh. Sự thật thì nó luôn hiện tiền ngay nơi chúng ta, đâu cần phải tìm kiếm ở đâu.

Khi chúng ta ngồi Thiền không có hôn trầm, những niệm nghĩ tưởng lăng xăng lặng xuống, dấy lên ta thấy biết rõ ràng tức là vẫn tỉnh vẫn biết như thường, cái biết đó nó không động không tịnh, không sanh diệt như các niệm vọng tưởng. Ðó là mình đã có sẵn cái không động, không sanh diệt rồi. Chỉ cần ta không chạy theo cái động, thì trở về được với cái không động, đó là giải thoát sanh tử. Vì cái động sanh diệt tạo nghiệp đi trong sanh tử, còn cái không động, không sanh diệt thì không tạo nghiệp sanh tử. Cho nên sống được với cái không động là giải thoát sanh tử, cần gì tìm kiếm ở đâu xa. Trong nhà Thiền nói "Cỡi trâu đi tìm trâu", "Cõng Phật mà đi tìm Phật" là thế.

Vì vậy trong kinh Pháp Hoa, chàng cùng tử say sưa được bạn tặng cho hòn ngọc quí bỏ trong túi áo, anh lo say lang thang hoài nên quên mất mình có hòn ngọc. Ðến khi được bạn chỉ thẳng mới nhớ lại mình có hòn ngọc trong túi áo từ lâu. Ðó là chỉ cho tất cả chúng ta có cái chân thật quí báu mà không nhớ không nhận, cứ chạy theo cái tạm bợ cái giả dối hoài.

Tôi nhắc lại chúng ta tu là dẹp bớt những tâm niệm xấu ác, giữ những tâm niệm hiền lành tốt đẹp, đó là chặng thứ nhất. Kế đến tất cả niệm sanh diệt dù tốt hay xấu cũng đều bỏ hết, đừng luyến tiếc mà phải sống với cái chân thật không sanh không diệt, không hình tướng của mình. Như vậy tu là làm một việc cao siêu phi thường, chớ không phải tầm thường.

Chúng ta hiện giờ đang sống đang tu, mà chỉ mong muốn những cái nho nhỏ, như đời sau có phước hơn đời này, giàu sang sung sướng hơn đời này. Nhưng ta quên rằng dù được như vậy chắc gì đã hạnh phúc, vì có thân là có khổ. Có ai khỏi bệnh, khỏi chết đâu. Bệnh chết là khổ hay vui? Cái án đó đã sẵn cho mọi người. Ai rồi cũng phải đi tới già, tới bệnh, tới chết. Ðã có án tử hình thì cuộc sống là vui hay là khổ? Vậy mà chúng ta cứ buông trôi, ngày mai ra sao mặc nó, bây giờ cứ cười cứ vui. Người không thấy xa biết rõ, là người không sáng suốt, không có trí tuệ.

Người tu có hai trường hợp, thứ nhất nhớ cuộc đời vô thường rồi buồn rầu chán nản không muốn làm gì. Như vậy chưa phải khéo tu. Thứ hai cũng biết vô thường nhưng vui vẻ, vì biết đó là luật chung của mọi người, không ai tránh được. Muốn tránh phải tự tìm một lối đi khác, chớ không thể ngồi buồn mà tránh được. Ðây là người khéo tu. Cho nên chúng ta học Phật, biết đời là khổ nhưng mình vẫn vui. Vì trong cái khổ sanh diệt có cái chân thật không sanh diệt, luôn hằng hữu bên mình. Thế thì ta dại gì sống với cái sanh diệt, bỏ mất cái không sanh diệt cho phải khổ. Vì vậy đạo Phật không những không bi quan, mà còn lạc quan yêu đời nữa là khác.

Người biết tu thì biết sửa đổi sai lầm, luôn tỉnh giác và đánh thức mọi người cùng tỉnh giác, như vậy cuộc sống mới có giá trị. Nếu cả cuộc đời mấy chục năm, sống trong u tối thì thật vô nghĩa. Ðời này qua đời khác, cứ chồng chập như vậy thì khổ não biết bao nhiêu. Lại, Phật bảo được thân người là khó, như rùa trăm năm mới gặp bọng cây giữa biển khơi.

Tuy thân này hư tạm, nhưng nếu chúng ta biết lợi dụng nó, để tu hành thì sẽ vượt thoát khỏi dòng sanh tử, sống với Pháp thân chân thật, muôn đời không sanh diệt. Giống như rùa mù nương bọng cây được vào bờ. Ngày nào sống là một ngày thức tỉnh, ngày nào sống là một ngày an lạc. Khi không còn nghĩ chuyện tốt xấu, phải quấy ta sẽ thấy vui. Vui thế nào? Tất cả niệm hơn thua phải quấy không khởi thì gương mặt mình lúc nào cũng tươi sáng, đó là cái vui chân thật. Còn vui hỉ hạ là cái vui của thế gian, không chân thật.

Nhưng người đời luôn tìm vui trong cái hơn thua được mất. Ví dụ người ta tổ chức đá bóng, đội nào thắng mình vỗ tay cười vui, trong khi đội thua rất đau khổ. Vui trong sự đau khổ của người khác, thì cái vui đó không thật vui. Người thắng thì vui, người thua thì khổ. Như vậy vui của thế gian chỉ là cái vui tương đối, vui khổ theo nhau, chớ không hoàn toàn vui.

Chỉ khi tâm chúng ta dứt các niệm phải quấy, hơn thua v.v. lặng lẽ thanh tịnh mới thật là vui. Nhưng có nhiều người, nhất là tuổi học sinh sinh viên, nói tu cái gì cũng bỏ hết thành ra ngu ngốc. Phải nhét vô đầu thật nhiều mới có kiến thức rộng, mới là người hiểu biết. Thật ra không phải vậy, người tu bỏ những niệm lăng xăng tạp loạn, để tập trung vào một việc thì sáng thêm chớ ngu sao được. Ví dụ khi học cứ một tâm chuyên chú vào việc học, không nhớ nghĩ viển vông chuyện nọ chuyện kia, thì càng học càng thông minh sáng suốt hơn, chớ ngu sao được. Khi làm việc cũng vậy, buông hết chuyện tạp, tập trung vào công việc thì kết quả sẽ tốt hơn.

Thời nay, người ta muốn nhớ nhiều quá thành ra quên hết. Bởi vì nhét đầy óc ách trong não, khiến nó mỏi mệt nên nó không thể tiếp nhận được gì cả. Rồi rốt cuộc càng muốn nhớ thì càng quên. Trong khi người càng buông lại càng nhớ, nhớ một cách tự nhiên trong sáng nên mọi việc hiện ra rất rõ ràng phân minh.

Chúng ta thử nghiệm xem khi nào đầu mình rối nuồi việc này việc kia, lúc đó mình cứ quên đầu quên đuôi. Khi ấy, chỉ cần ngồi thiền một chút ta liền nhớ trở lại. Vì vậy nhiều người mới tập tu thiền nói ở ngoài không nhớ gì hết, đến lúc ngồi thiền, lại nhớ đủ chuyện. Như vậy có lỗi không? Tôi giải thích đó không phải tội lỗi, vì lúc ở ngoài việc này việc kia khỏa lấp nên ta không nhớ, khi ngồi thiền tâm yên định, nó trồi lên nên ta thấy đủ chuyện. Thấy thì thấy, biết nó không thật liền buông thì không có lỗi gì cả, quan trọng là đừng chạy theo nó.

Như đức Phật khi ngồi thiền dưới cội bồ-đề, chứng được Túc mạng minh, Ngài nhớ lại chuyện vô số kiếp về trước như nhớ chuyện hôm qua. Khi buông bỏ hết, ta tưởng như quên nhưng trái lại nhớ rõ hơn. Còn ráng nhớ rốt cuộc nhớ không bao nhiêu. Hiểu như vậy mới thấy tâm mình là kho chứa, nên nhà Phật gọi là Tàng thức. Cái kho ấy chứa tất cả chủng tử lành dữ của mình, nếu ta loại hết những lăng xăng tạp loạn thì kho Tàng thức đó biến thành Như Lai tàng. Kho thức phân biệt mà sạch hết những niệm phân biệt thì trở thành kho Như Lai, kho Phật chớ không phải hết trơn.

Vì vậy khi tu chúng ta buông bỏ hết, nhưng đừng tưởng mất tất cả. Không phải vậy, ngồi yên định lại, muốn nhớ thì nhớ rõ ràng, không muốn nhớ thì thôi. Ðó là người đã làm chủ được mình và các pháp, sống tùy duyên an vui tự tại, không bị các pháp nhiễu loạn. Nên những người tu càng cao càng hay, thì càng ít chú ý tới mọi thứ, nhưng cần thiết thì các ngài thấy biết rõ ràng, không nghi ngờ. Còn chúng ta những thứ cần biết thì không biết, những thứ không cần biết lại biết. Vì vậy chúng ta khác các ngài.

Tóm lại, hôm nay tôi muốn nhắc tất cả nhớ điều này: Việc gì đáng lo thì mình lo, việc gì không đáng lo thì buông bỏ bớt. Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.

Người tu không sợ ngu, chỉ sợ không tu được thôi. Tu được tức là giác ngộ, mà đã giác ngộ tức là trí tuệ viên mãn, nói gì là ngu với không ngu ! (HT. Thích Thanh Từ giảng)
Ðề tài tôi nói hôm nay rất bình dân Người đời việc ít quan trọng dồn hết tâm lực lo, việc tối quan trọng lại lơ là. Tất cả chúng ta có mặt trên thế gian này, đều do không sáng suốt nên thường lầm lẫn, những điều không quan trọng hay ít quan trọng, chúng ta dồn hết tâm lực để lo, còn những điều tối quan trọng lại không để ý, không màng tới. Tôi sẽ tuần tự giảng giải điều này cho tất cả thấy rõ.

Như cuộc sống hiện giờ có ba việc ăn, uống, thở, trong đó chúng ta lo việc nào nhiều nhất? Thường người ta lo ăn nhiều nhất. Tối ngày chạy lo ăn, nhưng thật ra nếu nhịn ăn mấy ngày có chết không? Không chết. Kế đó là uống, nhịn uống hai ba ngày mới chết. Ðến thở, nhịn bao lâu chết? Trong tích tắc, thở ra mà không hít vô là chết. Vậy mà người ta lại quan trọng ăn với uống, còn thở ra sao thì không biết. Rõ ràng việc tối quan trọng lại lơ là, còn việc không quan trọng thì dồn hết tâm lực vào đó. Như vậy mới thấy cái lầm lẫn của chúng ta thật đáng thương.

Bước qua phần thứ hai, thân và tâm tức thể xác và tinh thần, cái nào quan trọng hơn? Chúng ta thường lo cho thể xác hay tinh thần? Thể xác lo cho sạch đẹp sung mãn, còn tinh thần thì không nghĩ tới. Nhìn chung con người chỉ nặng về thể xác mà xem nhẹ phần tinh thần, trong khi tinh thần điều khiển thể xác. Ví dụ từ trong nhà đi ra đường, ta khởi nghĩ trước rồi mới đi. Làm việc gì cũng vậy, khởi nghĩ trước rồi mới làm. Rõ ràng tinh thần chỉ huy mà chúng ta lại không quan tâm, chỉ quan tâm thể xác.

Nhưng thử hỏi chúng ta lo cho thể xác được sung mãn, mà nó còn mãi không? Lo cho mấy nó cũng bại hoại. Lo nào nhà cửa, tiền bạc, cơm ăn áo mặc. nhưng khi nhắm mắt tất cả những thứ đó còn hay mất? Lo để ngày mai sẽ mất thì lo làm gì? Vậy mà chúng ta cứ lo, lo ngày lo đêm, lo hết sức là lo. Cái giữ không được mà dồn hết cho nó, còn cái chủ thúc đẩy chỉ huy lại không để ý, mặc tình nó ra sao thì ra. Như vậy chúng ta sáng suốt không? Ðó là vấn đề chúng ta cần phải xét lại để khỏi lầm lẫn.

Nếu nói tâm hồn hay tinh thần là cái chỉ huy, sắp đặt cho cuộc sống, thì chúng ta phải lo cho nó tốt đẹp, cao quí mới phải, còn thân tạm bợ này lo xoàng xoàng cũng được. Thế mà ta làm ngược lại. Ðó là điều rất sai lầm của đa số người thế gian.

Bây giờ nói tu là tu thế nào? Nhiều người bảo ăn chay, lạy Phật nhiều là tu. Ăn chay, lạy Phật cũng thuộc về phần thể xác, còn bộ chỉ huy thì không lo. Vì vậy tu cũng có nhiều cách. Tu bằng hình thức tạo phước tạo duyên, hoặc tu bằng cách lọc bỏ các vọng tưởng cho tâm được trong sáng thanh tịnh. Trong hai cách tu trên, cách tu sau mới là quan trọng. Bởi vì tâm là vị chỉ huy, nếu chỉ huy tốt thì thân miệng làm các việc tốt, cuộc sống theo đó quí đẹp. Còn tu về phần vật chất thì có phước, nhưng tâm còn phiền não thì không giải quyết được cội gốc vô minh sanh tử. Ðó là điều quan trọng người tu chúng ta cần phải biết.

Muốn xây dựng, muốn gạn lọc cho tinh thần được trong sáng, tốt đẹp thì phải quay lại xem xét mình. Tất cả chúng ta hiện giờ có ai không biết tham lam, nóng giận, si mê là xấu đâu. Biết thì biết mà không nỡ bỏ, cho nên Phật quở chúng sanh thật mê muội, rất đáng thương. Bình thường không việc gì thì thấy rất hiền lành, nhưng gặp việc trái ý liền nổi sân đùng đùng. Nóng giận như vậy đã là sai rồi mà còn bảo vệ cho cái giận của mình, tại thế này, tại thế nọ nên tôi mới giận. Ðã bảo vệ nó, thì làm sao bỏ được. Ít người nào giận mà nói lỗi tại tôi, lý đáng không nên như vậy, thật là xấu hổ. Không dám nhận lỗi là ngầm chấp nhận mình đúng người sai, nên không bao giờ chịu sửa đổi tật nóng giận của mình.

Con người thật là mâu thuẫn. Ðến với Phật hít hà lạy lục, mong cho con được sáng suốt, thanh tịnh. mà những thói xấu không chịu bỏ. Ðó là điều rất thực tế, Phật tử vẫn còn lúng túng. Tôi nói nóng giận là cái nổi nhất, còn tham lam, ngu si ngầm bên trong khó bỏ hơn nữa. Người tham lam có một triệu muốn hai triệu, có hai triệu muốn ba triệu, không dừng lại bao giờ. Có ít muốn nhiều, muốn hoài cũng không bao giờ thấy đủ.

Chúng ta tưởng tham không dính dáng gì sân, nhưng thật tình tham là cha đẻ của sân hận. Ví dụ ra chợ thấy món hàng vừa ý mình muốn mua. Nghe người bán nói năm trăm, mình trả ba trăm, người ta chưa chịu bán. Lúc đó có người trả bốn trăm, người ta bán. Vậy là mình nổi tức lên, rõ ràng giận từ tham mà ra. Ðó là những cái tham nhỏ, chưa phải trong tầm tay của mình, còn những cái tham trong tầm tay của mình. Ta quí ta thích nó, khi mất mình sẽ sân giận tới đâu nữa.

Thí dụ mình vừa sắm được cái lục bình vừa ý, bất thần đứa cháu sẩy tay làm rớt bể. Lúc đó cơn nóng đùng đùng nổi lên, mình la ó om sòm. Cái nóng giận đó do tham của quí, muốn giữ mà mất nên mình mới sân hận. Như vậy có thể nói tất cả sự nóng giận đều bắt nguồn từ lòng tham. Như ta muốn được khen, được danh thơm tiếng tốt mà bị người chê thì nổi nóng liền. Tham danh, tham lợi, tham tài, tham sắc, tham cái nào mà không được cũng dẫn đến sân hận cả.

Song lòng tham gốc từ si mê mà ra. Như mạng sống của chúng ta qua một ngày là mất một phần. Cuộc đời vô thường, ngày nay sống chưa chắc ngày mai đã còn. Người thấy được lý vô thường là thấy được lẽ thật. Do vô thường, thở ra không hít lại là chết, mạng sống này đâu có bảo đảm dài lâu. Nhưng nghe ai nói ngắn, thì mình buồn, mình cự lại. Còn nghe nói dài, sống đến trăm tuổi là vui liền, như vậy không phải si mê là gì?

Chúng ta thường sống với những ảo tưởng, mơ ước không có lẽ thật, đó là gốc từ si mê. Nếu ai nói mạng mình yểu ta liền xét biết, cuộc sống trong hơi thở không yểu sao được. Nói vậy, biết vậy thì cười thôi, không giận hờn ai. Vì không có trí tuệ, ta sống trong ảo tưởng, không đúng lẽ thật, nên sanh ra tham lam sân hận, đủ thứ phiền não che lấp tâm chân thật.

Từ si mê cho rằng đời sống cả trăm năm, rồi lo tạo dựng sự nghiệp không có ngày cùng, đến tắt thở cũng chưa rồi. Vì vậy mà cả một đời người mấy chục năm, chúng ta cứ lao vào hình thức vật chất, không nghĩ tới tâm tư của mình trong sáng hay tối tăm. Chúng ta không biết trau dồi tâm tánh của chính mình chút nào hết, mà lại đuổi theo những cái tạm bợ bên ngoài.

Ðời này tạo lập, xây dựng nếu lỡ chết đi thì tiếc nuối không bỏ được, nên rồi phải trở lại nữa. Thế nên Phật nói si mê là gốc của luân hồi, chúng sanh trở đi trở lại không giải thoát được, gốc từ si mê mà ra. Từ si mê chúng ta có đủ thứ sai lầm. Si mê về sự sống, si mê danh vọng, si mê sắc đẹp. Bởi nghĩ mình đẹp nên ai chê xấu thì giận, nghĩ mình khôn nên ai chê ngu thì giận. Người ta cứ tưởng tượng về mình, chớ sự thật chắc gì mình đẹp, chắc gì mình tốt, chắc gì mình khôn. Nhưng nghe khen thì vui, nghe chê thì không chịu. Như vậy có phải si mê không? Con người chịu hết khổ này tiếp nối khổ kia, không thoát được là vì thế.

Bây giờ nếu chúng ta biết rõ mạng sống vô thường, thân này không thật. Ta không là gì trong xã hội này cả thì có gì để tự hào, ngạo mạn. Nghĩ mình là rơm là rác, tự nhiên ta sẽ buông bỏ được những thứ tạm bợ quanh mình, sửa đổi những thói hư tật xấu thành ra tốt đẹp. Biết thân này không có giá trị chân thật thì sẽ không còn đắm luyến nó nữa, ta mới vươn lên tìm cái chân thật. Ðó là biết lo cái đáng lo, bỏ cái đáng bỏ.

Chúng ta kiểm lại ba điều: Một là mạng sống trong hơi thở. Hai là thân này hư dối tạm bợ, không có gì quan trọng. Ba là ta vẫn còn nhiều khiếm khuyết cần phải tu sửa. Nhớ như vậy, chúng ta sẽ tập trung vào việc tu dễ dàng, gạn lọc tâm trong sạch, thanh tịnh. Tịnh hóa được thân tâm rồi thì các thứ hình thức vật chất trong cuộc sống này không thể lôi kéo chúng ta được nữa. Ðó là một lẽ thật.

Thật vậy, khi nhìn lại thấy thân này là đãy da hôi thối, giống như cái bô đậy kỹ, có ai đi ngang bịt mũi, mình sẽ cười nói tránh đường cho cái bô đi. Như vậy đâu có khổ. Rõ ràng lâu nay chúng ta sống trong mê lầm. Bây giờ phải gan lên, phải thấy được lẽ thật thì đời sống của mình mới an lành tự tại. Lúc nào cũng nhớ từ si mê sanh ra tham lam, từ tham lam sanh ra nóng giận. Ba thứ này là phiền não rất độc cần dẹp bỏ, chớ không thể nuôi dưỡng được.

Nhưng chúng ta có bệnh biết sai mà không can đảm sửa liền, cứ hẹn từ từ. Như vậy đòi tu mau ngộ đạo, mau thành Phật sao được! Bởi vì tu là phải dùng trí tuệ thấy đúng như thật, cái gì ảo tưởng phải chừa bỏ, như vậy mới hết gốc mê, hết mê mới hết khổ. Chúng ta không gan, không dám nhìn thẳng, không dám bỏ thì không bao giờ được an lạc giải thoát.

Khổ đau không phải từ đâu đem đến, mà tại chúng ta không sáng suốt, không có trí tuệ. Có người nghe Phật dạy đời là khổ, thân là vô thường, v.v. cho rằng Phật bi quan. Nhưng không ngờ thấy được lẽ thật đó sẽ cởi mở biết bao nhiêu việc, không còn đeo đẳng đau khổ nữa. Do không biết không nhận như vậy nên người thế gian đau khổ vô cùng, hết đời này tới đời khác không lúc nào hết buồn hết lo.

Chúng ta thử nghiệm lại trên thế gian này, từ người giàu cho tới người nghèo, có ai không khổ đâu, có ai sống toàn là vui đâu. Mỗi người khổ mỗi cách, có người khổ vì thiếu thốn đói rét, có người khổ vì côi quả, có người khổ vì gia đình không hạnh phúc. ai cũng khổ, không có ai vui trọn vẹn. Vậy mà Phật nói cuộc đời là khổ thì bảo đạo Phật bi quan. Rõ ràng con người luôn chạy trốn sự thật.

Chúng ta phải dám nhìn vào sự thật mới có thể can đảm tiến lên. Biết cuộc đời vô thường để ngày nào, giờ nào mình còn sống thì cố tu tập, dẹp những thói xấu. Chỉ nhớ mạng sống trong hơi thở là hết tham ngay. Nhớ thân này nhơ nhớp thì bớt ngã mạn, tự nhiên ta trở về cuộc sống chân thật của mình. Ðó là người có trí tuệ sáng suốt.

Tu là rèn luyện trí tuệ cho được sáng suốt, được tốt đẹp, đó là điều tiên quyết. Thân này dầu sửa sang, lo lắng mấy nó cũng bại hoại, cũng chỉ là tấm thân hư thối thôi. Tất cả cái được đó đều là được để mất, chớ không phải được để còn mãi. Vậy mà chúng ta cứ cắm đầu lo thôi là lo, còn việc tẩy rửa gạn lọc cho tâm trong sáng, tốt đẹp thì ít quan tâm tới. Phần nhiều Phật tử đi chùa học Phật, chỉ muốn tu để đời sau sung sướng hơn, phước đức hơn, đẹp đẽ hơn, chớ không muốn thấy đúng lẽ thật, không muốn dứt si mê, giác ngộ giải thoát.

Trong nhà Thiền tu là gạn lọc nội tâm, giống như một khạp nước đục, chúng ta lóng xuống cho nó trong. Lóng lặng rồi thì nước trong, nhưng cặn bã vẫn còn dưới đáy khạp, nếu quậy lên thì chúng sẽ ngầu đục trở lại. Bây giờ muốn nó hoàn toàn trong, không có cặn cáu nữa thì phải lọc qua một khạp khác. Cũng vậy, tham sân si là cặn cáu, nó làm cho tâm trí mình mờ tối, bây giờ chúng ta phải lọc, phải gạn cho nó lắng xuống trước. Lắng xuống rồi phải lọc bỏ nó đi, lúc đó tâm mình mới trong sáng. Tâm hồn trong sáng tức không còn đau khổ nữa, còn tâm hồn tối tăm thì đau khổ không có ngày dứt được. Ðó là điều hết sức thiết yếu.

Chúng ta có hai thứ tâm, tâm sanh diệt tùy duyên và tâm thanh tịnh hằng sáng không mất. Khi chúng ta nghĩ xấu, nghĩ ác thì tâm đó luôn thay đổi hay nguyên vẹn mãi như vậy? Thí dụ có người nói trái ý, mình giận ghét họ, đó là tâm xấu. Nhưng thời gian sau họ làm gì vừa ý, mình liền vui vẻ, thương mến họ. Ðó là tâm sanh diệt tùy duyên. Duyên thuận thì nó tốt, nghịch thì nó xấu chớ không cố định. Ðã là sanh diệt tùy duyên thì không phải thật mình. Như vậy không ai cả ngày giận hoài, cũng không ai cả ngày ghét hoài. Thương, ghét, buồn, giận đều tùy duyên lộn qua đảo lại, không cố định. Vừa giận đó rồi thương, vừa ghét đó rồi mến, đổi thay luôn.

Phật dạy phàm những gì do duyên hợp đều hư giả, vậy mà chúng ta chỉ sống với cái giả, bỏ quên cái thật. Cả ngày đem hết sức lực để lo lắng, gìn giữ cái thân tạm bợ này. Ðến tâm tức tinh thần, chúng ta giữ phần hơn thua, phải quấy, tốt xấu, được mất cho đó là tâm mình. Tâm tôi nghĩ phải, tâm tôi nghĩ quấy, tâm tôi vui buồn, thương ghét. có rồi mất, không thường còn. Tâm không thật luôn sanh diệt như vậy mà bám vào đó chấp là mình, thành ra mất mình luôn. Có đáng thương không?

Phật bảo chúng sanh do ba nghiệp mà đi trong sanh tử luân hồi. Ba nghiệp là thân, miệng và ý. Khi ý nghĩ xấu thì miệng nói xấu, thân làm xấu nên nghiệp dẫn đi trong ba đường ác địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Nếu ý nghĩ tốt, thì miệng nói phải, thân làm phải nên nghiệp dẫn đi trong ba đường lành trời, người, a-tu-la.

Như vậy chánh nhân tạo nghiệp là ý, tức những thứ buồn thương giận ghét của chúng ta. Tâm đó là chủ tạo nghiệp, muốn tu giải thoát sanh tử mà bám vào nó thì không bao giờ giải thoát được. Chỉ là phước báu hoặc tội nghiệp, dẫn đi trong đường lành hoặc đường dữ thôi.

Ban đầu, chúng ta tu thì tập bỏ những thứ xấu ác, sau đó đến các thứ tốt thiện cũng phải bỏ luôn. Nhưng thường không ai bỏ cái tốt cả, uổng lắm cho nên được sanh cõi lành, thành ra cũng quanh quẩn ở sanh tử thôi. Chúng ta chưa tìm ra cái thật mình, thì chưa thể được an vui vĩnh viễn. Cái thật đó Lục Tổ nói "Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?" Vậy khi tâm hằng tri, hằng giác mà không có niệm thiện ác lôi cuốn, lúc đó mình đi đâu? Không tạo nghiệp là giải thoát sanh tử, còn đi đâu nữa.

Chúng ta ai cũng sẵn có cái không tạo nghiệp, không bị nghiệp dẫn mà không chịu nhận, cứ nhận cái tạo nghiệp, cái sanh tử là mình rồi khỏa lấp cái mình thật. Bản lai diện mục tức là mặt thật xưa nay của mình, nó bị khỏa lấp bởi niệm thiện, niệm ác. Chừng nào những niệm đó lặng sạch thì mặt thật xưa nay hiện tiền. Vậy lúc niệm thiện ác chưa lặng sạch thì mặt thật kia ở đâu?

Bình thường chúng ta thấy biết tất cả mà không khởi niệm phân biệt, cái thấy biết đó không động. Nó luôn hiện tiền nhưng mình vừa khởi phân biệt thì nó khuất đi, chớ không phải mất, không phải thiếu vắng bao giờ. Chúng ta chạy theo niệm sanh diệt thì cái chân thật ẩn khuất, khi nào dừng lặng các niệm sanh diệt thì nó hiện bày. Cho nên các Thiền sư thường nói "Tại ông không nhận, chớ không phải không có".

Có ai không thấy, không nghe, không biết. Thấy, nghe, cảm giác biết hết nhưng ở giai đoạn đầu chưa khởi niệm phân biệt tốt xấu, hơn thua thì cái biết chân thật không sanh diệt. Khi tâm khởi niệm phân biệt là chuyển sang cái biết sanh diệt rồi. Thấy cứ thấy, nghe cứ nghe, có người nào thiếu đâu, nhưng ai cũng than kiếm không ra Phật tánh. Sự thật thì nó luôn hiện tiền ngay nơi chúng ta, đâu cần phải tìm kiếm ở đâu.

Khi chúng ta ngồi Thiền không có hôn trầm, những niệm nghĩ tưởng lăng xăng lặng xuống, dấy lên ta thấy biết rõ ràng tức là vẫn tỉnh vẫn biết như thường, cái biết đó nó không động không tịnh, không sanh diệt như các niệm vọng tưởng. Ðó là mình đã có sẵn cái không động, không sanh diệt rồi. Chỉ cần ta không chạy theo cái động, thì trở về được với cái không động, đó là giải thoát sanh tử. Vì cái động sanh diệt tạo nghiệp đi trong sanh tử, còn cái không động, không sanh diệt thì không tạo nghiệp sanh tử. Cho nên sống được với cái không động là giải thoát sanh tử, cần gì tìm kiếm ở đâu xa. Trong nhà Thiền nói "Cỡi trâu đi tìm trâu", "Cõng Phật mà đi tìm Phật" là thế.

Vì vậy trong kinh Pháp Hoa, chàng cùng tử say sưa được bạn tặng cho hòn ngọc quí bỏ trong túi áo, anh lo say lang thang hoài nên quên mất mình có hòn ngọc. Ðến khi được bạn chỉ thẳng mới nhớ lại mình có hòn ngọc trong túi áo từ lâu. Ðó là chỉ cho tất cả chúng ta có cái chân thật quí báu mà không nhớ không nhận, cứ chạy theo cái tạm bợ cái giả dối hoài.

Tôi nhắc lại chúng ta tu là dẹp bớt những tâm niệm xấu ác, giữ những tâm niệm hiền lành tốt đẹp, đó là chặng thứ nhất. Kế đến tất cả niệm sanh diệt dù tốt hay xấu cũng đều bỏ hết, đừng luyến tiếc mà phải sống với cái chân thật không sanh không diệt, không hình tướng của mình. Như vậy tu là làm một việc cao siêu phi thường, chớ không phải tầm thường.

Chúng ta hiện giờ đang sống đang tu, mà chỉ mong muốn những cái nho nhỏ, như đời sau có phước hơn đời này, giàu sang sung sướng hơn đời này. Nhưng ta quên rằng dù được như vậy chắc gì đã hạnh phúc, vì có thân là có khổ. Có ai khỏi bệnh, khỏi chết đâu. Bệnh chết là khổ hay vui? Cái án đó đã sẵn cho mọi người. Ai rồi cũng phải đi tới già, tới bệnh, tới chết. Ðã có án tử hình thì cuộc sống là vui hay là khổ? Vậy mà chúng ta cứ buông trôi, ngày mai ra sao mặc nó, bây giờ cứ cười cứ vui. Người không thấy xa biết rõ, là người không sáng suốt, không có trí tuệ.

Người tu có hai trường hợp, thứ nhất nhớ cuộc đời vô thường rồi buồn rầu chán nản không muốn làm gì. Như vậy chưa phải khéo tu. Thứ hai cũng biết vô thường nhưng vui vẻ, vì biết đó là luật chung của mọi người, không ai tránh được. Muốn tránh phải tự tìm một lối đi khác, chớ không thể ngồi buồn mà tránh được. Ðây là người khéo tu. Cho nên chúng ta học Phật, biết đời là khổ nhưng mình vẫn vui. Vì trong cái khổ sanh diệt có cái chân thật không sanh diệt, luôn hằng hữu bên mình. Thế thì ta dại gì sống với cái sanh diệt, bỏ mất cái không sanh diệt cho phải khổ. Vì vậy đạo Phật không những không bi quan, mà còn lạc quan yêu đời nữa là khác.

Người biết tu thì biết sửa đổi sai lầm, luôn tỉnh giác và đánh thức mọi người cùng tỉnh giác, như vậy cuộc sống mới có giá trị. Nếu cả cuộc đời mấy chục năm, sống trong u tối thì thật vô nghĩa. Ðời này qua đời khác, cứ chồng chập như vậy thì khổ não biết bao nhiêu. Lại, Phật bảo được thân người là khó, như rùa trăm năm mới gặp bọng cây giữa biển khơi.

Tuy thân này hư tạm, nhưng nếu chúng ta biết lợi dụng nó, để tu hành thì sẽ vượt thoát khỏi dòng sanh tử, sống với Pháp thân chân thật, muôn đời không sanh diệt. Giống như rùa mù nương bọng cây được vào bờ. Ngày nào sống là một ngày thức tỉnh, ngày nào sống là một ngày an lạc. Khi không còn nghĩ chuyện tốt xấu, phải quấy ta sẽ thấy vui. Vui thế nào? Tất cả niệm hơn thua phải quấy không khởi thì gương mặt mình lúc nào cũng tươi sáng, đó là cái vui chân thật. Còn vui hỉ hạ là cái vui của thế gian, không chân thật.

Nhưng người đời luôn tìm vui trong cái hơn thua được mất. Ví dụ người ta tổ chức đá bóng, đội nào thắng mình vỗ tay cười vui, trong khi đội thua rất đau khổ. Vui trong sự đau khổ của người khác, thì cái vui đó không thật vui. Người thắng thì vui, người thua thì khổ. Như vậy vui của thế gian chỉ là cái vui tương đối, vui khổ theo nhau, chớ không hoàn toàn vui.

Chỉ khi tâm chúng ta dứt các niệm phải quấy, hơn thua v.v. lặng lẽ thanh tịnh mới thật là vui. Nhưng có nhiều người, nhất là tuổi học sinh sinh viên, nói tu cái gì cũng bỏ hết thành ra ngu ngốc. Phải nhét vô đầu thật nhiều mới có kiến thức rộng, mới là người hiểu biết. Thật ra không phải vậy, người tu bỏ những niệm lăng xăng tạp loạn, để tập trung vào một việc thì sáng thêm chớ ngu sao được. Ví dụ khi học cứ một tâm chuyên chú vào việc học, không nhớ nghĩ viển vông chuyện nọ chuyện kia, thì càng học càng thông minh sáng suốt hơn, chớ ngu sao được. Khi làm việc cũng vậy, buông hết chuyện tạp, tập trung vào công việc thì kết quả sẽ tốt hơn.

Thời nay, người ta muốn nhớ nhiều quá thành ra quên hết. Bởi vì nhét đầy óc ách trong não, khiến nó mỏi mệt nên nó không thể tiếp nhận được gì cả. Rồi rốt cuộc càng muốn nhớ thì càng quên. Trong khi người càng buông lại càng nhớ, nhớ một cách tự nhiên trong sáng nên mọi việc hiện ra rất rõ ràng phân minh.

Chúng ta thử nghiệm xem khi nào đầu mình rối nuồi việc này việc kia, lúc đó mình cứ quên đầu quên đuôi. Khi ấy, chỉ cần ngồi thiền một chút ta liền nhớ trở lại. Vì vậy nhiều người mới tập tu thiền nói ở ngoài không nhớ gì hết, đến lúc ngồi thiền, lại nhớ đủ chuyện. Như vậy có lỗi không? Tôi giải thích đó không phải tội lỗi, vì lúc ở ngoài việc này việc kia khỏa lấp nên ta không nhớ, khi ngồi thiền tâm yên định, nó trồi lên nên ta thấy đủ chuyện. Thấy thì thấy, biết nó không thật liền buông thì không có lỗi gì cả, quan trọng là đừng chạy theo nó.

Như đức Phật khi ngồi thiền dưới cội bồ-đề, chứng được Túc mạng minh, Ngài nhớ lại chuyện vô số kiếp về trước như nhớ chuyện hôm qua. Khi buông bỏ hết, ta tưởng như quên nhưng trái lại nhớ rõ hơn. Còn ráng nhớ rốt cuộc nhớ không bao nhiêu. Hiểu như vậy mới thấy tâm mình là kho chứa, nên nhà Phật gọi là Tàng thức. Cái kho ấy chứa tất cả chủng tử lành dữ của mình, nếu ta loại hết những lăng xăng tạp loạn thì kho Tàng thức đó biến thành Như Lai tàng. Kho thức phân biệt mà sạch hết những niệm phân biệt thì trở thành kho Như Lai, kho Phật chớ không phải hết trơn.

Vì vậy khi tu chúng ta buông bỏ hết, nhưng đừng tưởng mất tất cả. Không phải vậy, ngồi yên định lại, muốn nhớ thì nhớ rõ ràng, không muốn nhớ thì thôi. Ðó là người đã làm chủ được mình và các pháp, sống tùy duyên an vui tự tại, không bị các pháp nhiễu loạn. Nên những người tu càng cao càng hay, thì càng ít chú ý tới mọi thứ, nhưng cần thiết thì các ngài thấy biết rõ ràng, không nghi ngờ. Còn chúng ta những thứ cần biết thì không biết, những thứ không cần biết lại biết. Vì vậy chúng ta khác các ngài.

Tóm lại, hôm nay tôi muốn nhắc tất cả nhớ điều này: Việc gì đáng lo thì mình lo, việc gì không đáng lo thì buông bỏ bớt. Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.

Người tu không sợ ngu, chỉ sợ không tu được thôi. Tu được tức là giác ngộ, mà đã giác ngộ tức là trí tuệ viên mãn, nói gì là ngu với không ngu !

Thứ Sáu, 12 tháng 4, 2013

ĐẠI BI SÁM PHÁP

Nghi Thức Trì Tụng
ĐẠI BI SÁM PHÁP
Tu Viện Quảng Đức - 2005
 

----o0o----

1.    Thanh tịnh Đạo tràng:
 Hành giả dâng hương xong, quì trước bàn Phật, đồng tụng:
TỊNH PHÁP-GIỚI CHƠN-NGÔN: Án lam. (21 lần)
TỊNH TAM-NGHIỆP CHƠN-NGÔN: Án ta phạ bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần)
PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN:Án nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhật ra hộc. (3 lần)

2. Cúng dường tâm hương:

Hương thơm giăng bủa
Thánh đức tỏ tường
Bồ đề tâm rộng chẳng suy lường
Tùy chỗ phóng hào quang
Lành tốt phi thường
Dâng cúng Pháp Trung Vương.
Nam mô Hương Cúng Dường Bồ tát. (3 lần)

3. Tán dương Bồ tát Quán Âm:

Kính lạy đời quá khứ
Chánh Pháp Minh Như Lai
Chính là đời hiện nay
Quán Thế Âm Bồ tát

Bậc thành công đức diệu
Dũ lòng đại từ bi
Nơi trong một thân tâm
Hiện ra ngàn tay mắt

Soi thấy khắp pháp giới
Hộ trì các chúng sanh
Khiến phát lòng đạo sâu
Dạy trì chú Viên Mãn

Cho xa lìa đường ác
Được sanh trước Như Lai
Những tội nặng vô gián
Cùng bịnh ác lâm thân

Khó nỗi cứu vớt được
Cũng đều khiến tiêu trừ
Các tam muội, biện tài
Sự mong cầu hiện tại

Đều cho được thành tựu
Quyết định chẳng nghi sai
Khiến mau được ba thừa
Và sớm lên quả Phật

Sức oai thần, công đức
Khen ngợi chẳng hay cùng
Cho nên con một lòng
Qui mạng và đảnh lễ.

4. Đảnh lễ:

1. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế tôn (1 lạy)
2. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Thế tôn (1 lạy)
3. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Quá khứ vô lượng ức kiếp Thiên Quang Vương Tịnh Trụ Thế tôn (1 lạy)
4. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Quá khứ cửu thập cửu ức hằng hà sa chư Phật Thế tôn (1 lạy)
5. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Quá khứ vô lượng kiếp Chánh Pháp Minh Thế tôn (1 lạy)
6. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Thập phương nhứt thiết chư Phật Thế tôn (1 lạy)
7. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Hiền kiếp thiên Phật, tam thế nhứt thiết chư Phật Thế tôn (1 lạy)
8. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm đại đà la ni thần diệu chương cú (3 lần)
9. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Quán Âm sở thuyết chư đà la ni, cập thập phương tam thế nhứt thiết tôn Pháp (1 lạy)
10. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Thiên thủ Thiên Nhãn Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Tự Tại Bồ tát ma ha tát (3 lần)
11. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát ma ha tát (1 lạy)
12. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Tổng Trì Vương Bồ tát ma ha tát (1 lạy)
13. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Nhựt Quang Bồ tát, Nguyệt Quang Bồ tát ma ha tát (1 lạy)
14. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Bảo Vương Bồ tát, Dược Vương Bồ tát, Dược Thượng Bồ tát ma ha tát (1 lạy)
15. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Hoa Nghiêm Bồ tát, Đại Trang Nghiêm Bồ tát, Bảo Tạng Bồ tát ma ha tát (1 lạy)
16. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Đức Tạng Bồ tát, Kim Cang Tạng Bồ tát, Hư Không Tạng Bồ tát ma ha tát (1 lạy)
17. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Di Lặc Bồ tát, Phổ Hiền Bồ tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ tát ma ha tát (1 lạy)
18. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Thập phương tham thế nhứt thế Bồ tát ma ha tát (1 lạy)
19. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Ma ha Ca Diếp tôn giả, vô lượng vô số đại Thanh văn Tăng (1 lạy)
20. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Xiển Thiên Thai giáo quán Tứ Minh tôn giả, Pháp Trí đại sư (1 lạy)
21. Nhứt tâm đại vị Thiện Tra phạm ma, Cù Bà Dà thiên tử, Hộ Thế tứ vương, Thiên Long bát bộ, Đồng Mục thiên nữ, Hư Không thần, Giảng Hải thần, Tuyền Nguyên thần, Hà Chiểu thần, Dược Thảo Thọ Lâm thần, Xá Trạch thần, Thủy thần, Hỏa thần, Phong thần, Thổ thần, Sơn thần, Địa thần, Cung Điện thần, tinh thủ hộ trì chú nhứt thiết thiên, long, quỉ, thần, cập các quyến thuộc, đảnh lễ Tam bảo. (1 lạy)

5. Hành giả Phát Nguyện:

Kinh dạy: “Nếu có vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di hay đồng nam đồng nữ nào muốn tụng trì chú này, trước tiên phải phát tâm từ bi đối với chúng sanh và sau đây y theo tôi mà phát nguyện:
“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con mau biết tất cả pháp.”

“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con sớm được mắt trí huệ.”

“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con mau độ các chúng sanh.”

“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con sớm được phương tiện khéo.”

“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con mau lên thuyền Bát nhã.”

“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con sớm được qua biển khổ.”

“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con mau được đạo giới định.”

“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con sớm lên non Niết bàn.”

“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con mau về nhà vô vi.”

“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con sớm đồng thân pháp tánh.

“Nếu con hướng về nơi non đao,
Non đao tức thời liền sụp đổ.”

“Nếu con hướng về lửa, nước sôi,
Nước sôi, lửa cháy tự khô tắt.”

“Nếu con hướng về Địa ngục,
Địa ngục liền tự mau tiêu tan.”

“Nếu con hướng về loài Ngạ quỉ,
Ngạ quỉ liền được tự no đủ.”

“Nếu con hướng về chúng Tu la,
Tu la tâm ác tự điều phục.”

“Nếu con hướng về các Súc sanh,
Súc sanh tự được trí huệ lớn.”

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát. (10 lần)
Nam mô A Di Đà Phật. (10 lần)

6. Công năng thần diệu của chú Viên Mãn Đại Bi:

Quán Thế Âm Bồ tát lại bạch Phật rằng:
“Bạch đức Thế Tôn! Nếu chúng sanh nào tụng trì thần chú Đại Bi, mà còn bị đọa vào ba đường ác, con thề không thành chánh giác.”

“Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không sanh về các cõi Phật, con thề không thành chánh giác.”

“Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được vô lượng tam muội biện tài, con thề không thành chánh giác.”

“Tụng trì thần chú Đại Bi, tất cả sự mong cầu trong đời hiện tại, nếu không được vừa ý, thì chú này không được gọi là Đại Bi tâm đà la ni.”

7. Bồ Tát thuyết chú:

Khi đức Quán Thế Âm nói lời ấy rồi, liền ở trước chúng hội, chắp tay đứng thẳng, đối với chúng sanh khởi lòng từ bi, nở mặt mỉm cười, nói chương cú mầu nhiệm Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi tâm đà la ni rằng:

Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.
Nam-mô a rị da
Bø lô yết đế, thước bát ra da
Bồ-đề tát đỏa bà da
Ma ha tát đỏa bà da
Ma ha ca lô ni ca da
Án. Tát bàn ra phạt duệ
Số đát na đát tỏa
Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông
A rị da, bà lô kiết đế
Thất Phật ra lăng đà bà
Nam-mô na ra cẩn trì
Hê rị ma ha bàn đa sa mế
Tát bà a tha đậu du bằng
A thệ dựng
Tát bà tát đa
Na ma bà dà
Ma phạt đạt đậu
Đát điệt tha
Án a bà lô hê
Lô ca đế
Ca ra đế
Di hê rị
Ma ha bồ-đề tát đỏa
Tát bà tát bà
Ma ra ma ra
Ma hê ma hê, rị đà dựng
Cu lô cu lô kiết mông
Độ lô độ lô, phạt xà da đế
Ma ha phạt xà da đế
Đà ra đà ra
Địa rị ni
Thất Phật ra da
Giá ra giá ra
Mạ mạ phạt ma ra
Mục đế lệ
Y hê y hê
Thất na thất na
A ra sâm Phật ra xá-lợi
Phạt sa phạt sâm
Phật ra xá da
Hô lô hô lô ma ra
Hô lô hô lô hê rị
Ta ra ta ra
Tất rị tất rị
Tô rô tô rô
Bồ-đề dạ bồ-đề dạ
Bồ-đà dạ, bồ-đà dạ
Di đế rị dạ
Na ra cẩn trì
Địa rị sắc ni na
Ba dạ ma na ta bà ha
Tất đà dạ ta bà ha
Ma ha tất đà dạ, ta bà ha
Tất đà du nghệ
Thất bàn ra dạ, ta bà ha
Na ra cẩn trì ta bà ha
Ma ra na ra, ta bà ha
Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha
Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha
Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha
Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha
Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha
Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha

Nam-mô hắt ra đát na đa ra dạ da
Nam-mô a rị da
Bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha

Án tất điện đô, mạn đa ra
Bạt đà dạ, ta bà ha.
(tùy nguyện, mỗi lần nên tụng 3, 7, 9, 18, 21 hay 49 biến)

8. Nghe chú chứng quả:

Bồ tát thuyết chú xong, cõi đất sáu phen biến động. Trời mưa hoa báu rơi xuống rải rác. Mười phương chư Phật thảy đều vui mừng. Thiên ma ngoại đạo sợ dựng lông tóc.
Tất cả chúng hội đều được chứng quả.
Hoặc có vị chứng quả Tu đà hoàn.
Hoặc có vị chứng quả Tư đà hàm.
Hoặc có vị chứng quả A na hàm.
Hoặc có vị chứng quả A la hán.

Hoặc có vị chứng được Sơ địa, Nhị địa, Tam địa, Tứ địa, Ngũ địa cho đến Thập địa. Vô lượng chúng sanh phát tâm bồ đề.

9. Sám hối:

Chí tâm sám hối:
“Đệ tử chúng con, cùng pháp giới chúng sanh, hiện tiền một tâm vẫn đủ ngàn pháp, đều có sức thần cùng với trí sáng, trên sánh chư Phật, dưới đồng muôn loài.”

“Bởi niệm vô minh, che ánh sáng kia, nên đối cảnh hôn mê, khởi lòng chấp nhiễm, trong pháp bình đẳng, sanh tưởng ngã nhơn.”

“Lại do ái kiến làm gốc, thân miệng làm duyên, trong nẻo luân hồi, gây nên đủ tội: thập ác ngũ nghịch, báng pháp, báng người, phá giới, phạm trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của Tăng kỳ, bức người tịnh hạnh, xâm tổn thường trụ, đồ vật thức ăn. Dù ngàn Phật ra đời, khó bề sám hối.”

“Những tội như thế, không lường không ngằn, khi bỏ báo thân, phải đọa tam đồ, chịu vô lượng khổ.”

“Lại trong đời này, do túc hiện chướng, hoặc bị các nghiệp, lửa phiền thiêu đốt, tật bịnh vây quanh, duyên ngoài lôi cuốn, tà ma quấy nhiễu, làm ngăn đạo pháp, khó nỗi tiến tu.”

“May gặp thần chú VIÊN MÃN ĐẠI BI, có thể mau trừ những tội như thế, cho nên nay con hết lòng tụng trì. CON NGUYỆN NƯƠNG VỀ QUÁN ÂM BÔÀTÁT, cùng Phật mười phương, phát tâm bồ đề, tu hạnh chân ngôn, cùng với chúng sanh, tỏ bày các tội, cầu xin sám hối, nguyện đều tiêu trừ.”

“Nguyện đấng đại bi Quán Âm Bồ tát, ngàn tay nâng đỡ, ngàn mắt chiếu soi, khiến cho chúng con duyên chướng trong ngoài thảy đều dứt sạch; mình, người hạnh nguyện, đều được viên thành; mở tánh bản trí, dẹp trừ ma ngoại; ba nghiệp siêng cần, tu nhân Tịnh độ.”

“Nguyện cho chúng con khi bỏ thân này không vào đường khác, quyết được sanh về thế giới Cực Lạc của Phật Di Đà. Rồi được thân cận học hỏi với đức Đại Bi Quán Âm, đủ pháp tổng trì, rộng độ chúng sanh, đồng thoát khổ luân, đều thành Phật đạo.”

10. Lễ tạ Tam Bảo:
Đệ tử sám hối phát nguyện rồi, xin quy mạng đảnh lễ Tam Bảo:

Nhứt tâm đảnh lễ Nam mô Thập phương thường trụ Tam Bảo. (3 lạy)

11. Tâm Kinh Bát nhã ba la mật đa:

Bồ tát Quán Tự Tại
khi quán chiếu thâm sâu
bát nhã ba la mật,
(tức diệu pháp trí độ),
bỗng soi thấu năm uẩn
đều không có tự tánh.
Thực chứng điều ấy xong,
Ngài vượt thoát tất cả
mọi khổ đau ách nạn.

Nghe đây Xá Lợi Tử:
Sắc chẳng khác gì không,
không chẳng khác gì sắc.
Sắc chính thực là không,
không chính thực là sắc.
Còn lại bốn uẩn kia
cũng đều như vậy cả.

Xá Lợi Tử nghe đây:
Thể mọi pháp đều không.
không sanh, cũng không diệt,
không nhơ, cũng không sạch,
không thêm, cũng không bớt.

Cho nên trong tánh không,
không có sắc, thọ, tưởng,
cũng không có hành, thức.
Không có nhãn, nhĩ, tỉ,
thiệt, thân, ý: sáu căn.
Không có sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp: sáu trần.
Không có mười tám giới:
Từ nhãn, đến ý thức.
không hề có vô minh,
không có hết vô minh,
cho đến không lão, tử.
Không khổ, tập, diệt, đạo.
Không trí, cũng không đắc.

Vì không có sở đắc,
khi một vị Bồ tát
nương diệu pháp trí độ
(bát nhã ba la mật)
tâm không còn chướng ngại.
Vì tâm không chướng ngại
nên không có sợ hãi,
xa lìa mọi điên đảo,
đạt niết bàn tuyệt đối.

Chư Phật trong ba đời
nương diệu pháp trí độ
(bát nhã ba la mật)
nên chứng vô thượng giác.

Vậy nên phải biết rằng:
bát nhã ba la mật
là linh chú đại thần,
là linh chú đại minh,
là linh chú vô thượng,
là linh chú siêu tuyệt,
chân thật không hư vọng,
có năng lực tiêu trừ
tất cả mọi khổ nạn.
Cho nên tôi muốn thuyết
câu thần chú trí độ
(bát nhã ba la mật.)

Nói xong đức Bồ tát
liền đọc thần chú rằng:
Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. (3 lần)

12. Tán dương A Di Đà Phật:

A-Di-Đà Phật thân kim sắc,
Tướng hảo quang-minh vô đẳng-luân,
Bạch hào uyển-chuyển ngũ Tu-di,
Cám mục trừng thanh tứ đại hải

Quang trung hóa Phật vô số ức,
Hóa Bồ-tát chúng diệc vô-biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh,
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.

Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới, đại-từ đại-bi, tiếp dẫn đạo-sư A-Di-Đà Phật.

Nam-mô A-Di-Đà Phật. (30 hay 108 lần)
Nam-mô Đại-bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát. (3 lần)
Nam-mô Đại-Thế-Chí Bồ-tát. (3 lần)
Nam-mô Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ-tát. (3 lần)
Nam-mô Thanh-Tịnh Đại-Hải chúng Bồ-tát. (3 lần)

13. Sám hối và phát nguyện

Đệ tử chúng con từ vô thỉ
Gây bao tội-ác bởi lầm mê,
Đắm trong sanh-tử đã bao lần,
Nay đến trước đài Vô-thượng giác

Biển trần khổ lâu đời luân-lạc
Với sinh linh vô số điêu tàn
Sống u hoài trong kiếp lầm than
Con lạc lõng không nhìn phương hướng

Đàn con dại, từ lâu vất vưởng
Hôm nay trông thấy đạo huy hoàng
Xin hướng về núp bóng từ quang
Lạy Phật-Tổ soi đường dẫn bước

Bao tội khổ trong đường ác trược
Vì tham, sân, si, mạn gây nên
Thì hôm nay giữ trọn lời nguyện
Xin sám hối để lòng thanh thoát

Trí Phật quang-minh như nhậït nguyệt
Từ-bi vô-lượng cứu quần-sanh
Ôi! Từ lâu ba chốn ngục hình
Giam giữ mãi con nguyền ra khỏi

Theo gót Ngài vượt qua khổ ải
Nương thuyền từ vượt bể ái hà
Nhớ lời Ngài: "Bờ giác không xa"
Hành thập thiện cho đời tươi sáng

Bỏ việc ác cho đời quang-đãng
Đem phúc lành gieo rắc phàm nhân
Lời ngọc vàng ghi mãi bên lòng
Con nguyện được sống đời rộng rãi

Con niệm Phật để lòng nhớ mãi,
Hình bóng người cứu khổ chúng-sanh
Để theo Ngài trên bước đường lành
Chúng con khổ nguyện xin cứu khổ

Chúng con khổ nguyện xin tự độ
Ngoài tham lam, sân hận ngập trời
Phá si mê trí tuệ tuyệt vời
Con nhớ Đức Di Đà Lạc quốc

Phật A-Di-Đà thân kim sắc
Tướng tốt quang-minh tự trang-nghiêm
Năm Tu-di uyển-chuyển bạch hào
Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc

Trong hào quang hóa vô-số Phật
Vô-số Bồ-tát hiện ở trong
Bốn mươi tám nguyện-độ chúng-sanh
Chín phẩm sen-vàng lên giải-thoát

Quy mạng lễ A-Di-Đà Phật
Ở phương Tây thế-giới an lành
Con nay xin phát-nguyện vãng-sanh
Cúi xin đức Từ-Bi tiếp độ

Nam-mô Tây-phương Cực-Lạc thế giới, Đại-từ, Đại-bi A-Di-Đà Phật. (3 lần)

14. Sám nguyện

Đệ tử hôm nay quỳ trước điện
Chí tâm đảnh lễ đấng Từ Tôn
Đã bao phen sanh tử dập dồn
Trôi lăn mãi trong vòng lục đạo

Thế Tôn đã đinh ninh di giáo
Mà con còn đắm đuối mê say
Mắt ưa xem huyễn cảnh hàng ngày
Tai thích tiếng mật đường dua nịnh

Mũi quen ngửi mùi thơm bất tịnh
Lưỡi dệt thêu lắm chuyện gay go
Thân ưa dùng gấm vóc sa sua
Ý mơ tưởng bao la vũ trụ

Bởi lục dục lòng tham không đủ
Lấp che dần trí tuệ từ lâu
Hôm nay mong giác ngộ hồi đầu
Tâm sám hối phơi bày tỏ rõ

Nguyện tội ác từ nay chừa bỏ
Chuyển sáu căn ra khỏi lầm mê
Trước đài sen thành kính hướng về
Tịnh tâm ý quy y Tam Bảo

Phật cấm giới chuyên trì chu đáo
Dứt tận cùng cội rễ vô minh
Chí phàm phu tự lực khó thành
Cầu Đại Giác từ bi gia hộ

Dầu phải chịu muôn ngàn gian khổ
Con dốc lòng vì đạo hy sinh
Nương từ quang tìm đến bảo thành
Đặng tự giác giác tha viên mãn

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)

15. Hồi hướng:

Trì chú công-đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi-hướng
Phổ nguyện pháp-giới chư chúng-sanh
Tốc vãng Vô-Lượng-Quang Phật sát.

Hồi hướng lương duyên tam thế Phật
Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Tự Tại
Chư tôn Bồ tát ma ha tát
Ma ha Bát nhã ba la mật

Nguyện tiêu tam-chướng trừ phiền-não
Nguyện đắc trí-huệ chơn minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ-tát đạo

Nguyện sanh Tây-phương Tịnh-độ trung
Cửu phẩm Liên-hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ-tát vi bạn lữ

Nguyện dĩ thử công-đức
Phổ cập ư nhứt thiết
Ngã đẳng dữ chúng-sanh
Giai cộng thành Phật-đạo.


16. Quy y tự tánh Tam Bảo:

Tự quy-y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm. (1 lạy)
Tự quy-y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải. (1 lạy)
Tự quy-y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống-lý đại-chúng, nhất thiết vô ngại. (1 lạy)
Đạo tràng hoàn mãn, hành giả đảnh lễ rồi lui ra.

Làm sao để không sợ ma?

HỎI: Tôi đã 51 tuổi, là người đàn ông đã có gia đình, 2 đứa con, nhưng lại sợ ma. Không phải bây giờ, mà từ khi còn nhỏ đã rất sợ ma cho đến tận bây giờ. Tuy giờ đây mức độ sợ có giảm hơn nhưng khi nằm ngủ riêng hoặc ngủ một mình ở nhà, hễ nhắm lại là tinh thần bất an, chập chờn, tâm thức rối loạn, sợ ma đến dọa hoặc ma nhập. Mặc dù tôi luôn niệm Phật nhưng vẫn không an được. Có khi phải bật đèn sáng thì mới ngủ được một lúc. Khi ngồi thiền niệm Phật vào sáng sớm cũng cứ sợ mình bị nhập. Tôi rất phiền về việc này, bởi cứ như vậy thì việc tu tập khó tiến triển. Tôi không rõ là ma quỷ có làm hại mình được không? Kính nhờ quý Báo lý giải cho tôi được rõ, chỉ dạy cho tôi phương pháp tu tập và cách giải quyết để có thể vượt qua sợ hãi. (NHUẬN TẠNG)

ĐÁP: Bạn Nhuận Tạng thân mến! Hội chứng sợ ma, sợ quỷ nhập, sợ bóng đêm… xét về bệnh lý cũng là một thứ bệnh, có thể điều trị thành công bằng y học cổ truyền hay y khoa hiện đại. Vì vậy, nếu bạn chưa tiến hành điều trị theo y học thì nhanh chóng đến các bệnh viện chuyên khoa để được chữa trị.

Cùng với việc chữa trị theo y học, là một Phật tử, bạn có thể phát tâm tu tập pháp môn sám hối để chuyển hóa nghiệp chướng oan khiên nhiều đời kiếp của mình. Sự sợ hãi, lo lắng, tâm luôn bất an có thể mang dấu ấn oan nghiệt từ kiếp trước. Tuy bạn không nhớ, không có biểu hiện rõ ràng nhưng nó đã ám ảnh khiến bạn hốt hoảng, lo sợ từ lúc nhỏ cho đến tận bây giờ. Và, thành tâm sám hối là liệu pháp có thể hóa giải tất cả nghiệp chướng, oan gia trái chủ nhiều đời đó.

Bạn có thể chọn một bộ kinh sám như Hồng danh, Ngũ bách danh, Vạn Phật, Lương hoàng sám, Thủy sám… để thọ trì, lễ sám. Công đức của hành giả bái sám Hồng danh Phật có thể nói là không thể nghĩ bàn. Bạn đã biết niệm Phật, nên ngoài thời khóa lễ sám bạn cần gia tâm niệm danh hiệu Phật nhiều hơn nữa cho đến nhất tâm. Thiết nghĩ, với sự tinh cần tu niệm như vậy, bạn sẽ chuyển hóa được nghiệp chướng oan khiên và thiết lập được sự bình ổn cho tâm hồn.

Người đệ tử Phật sống và tu tập đúng Chánh pháp thì luôn được Tam bảo gia hộ, mọi thế lực kể cả ma quỷ đều không thể làm cho tổn hại. Điều quan trọng là bạn cần thấy rõ sự sợ hãi đó phát xuất từ bên trong tâm mình, nên nỗ lực tu tập để đạt đến nhất tâm. Khi tâm được an tịnh thì mọi sự sợ hãi đều biến mất.

Chúc bạn tinh tấn!

(TỔ TƯ VẤN Báo Giác Ngộ)

Khắc phục nỗi sợ hãi

WLS.jpg
Ảnh minh họa
Hỏi: Chúng con là những sinh viên, hiện đang gặp nhiều bất hạnh nên rất sợ hãi. Chúng con nghe một người bạn nói, giáo lý đạo Phật có chỉ cho con người cách thức giải quyết những nỗi sợ hãi bằng tinh thần Bố thí vô úy. Tuy có đọc qua một số kinh sách của Phật giáo nhưng con chưa hiểu rõ Bố thí vô úy là gì?
 
Đáp:
Sợ hãi là một hiệu ứng của tâm lý, một trạng thái tâm lý bất an, lo sợ, kinh hãi… xuất hiện và tồn tại nơi cuộc sống của mỗi chúng sanh từ khi lọt lòng cho đến lúc xuôi tay, nhắm mắt. Có những khi sức lực ta còn tràn đầy, tương lai rộng mở, cơ hội tốt nhất luôn kéo đến với ta; lúc ấy ta tưởng chừng như không còn sợ hãi nhưng kỳ thực nỗi sợ vẫn còn âm ĩ bên trong chúng ta, được ngụy trang dưới hình thức này hay hình thức khác. Có thể nói trong suốt cuộc đời, chúng ta phải đối diện với nhiều nỗi sợ hãi khác nhau và cấp độ của chúng cũng không như nhau.

Lúc còn bé, chúng ta sợ “ma”, sợ những sinh thể hình thù kỳ dị theo sự tưởng tượng của óc non nớt trẻ thơ. Khi lớn lên, có đôi chút hiểu biết thì những nỗi sợ này không còn ám ảnh ta nữa nhưng đồng thời có những nỗi sợ hãi lớn hơn phủ chụp lấy ta: sợ thiếu ăn, sợ mất việc làm, sợ gia đình ly tán, sợ bệnh tật, sợ chiến tranh, sợ chết… cùng vô vàn những nỗi sợ hãi khác.

Từ đây có thể thấy, cuộc sống của con người vốn dĩ đã khổ đau lại càng đau khổ hơn thêm vì luôn chất ngất những nỗi sợ hãi, luôn sống trong sợ hãi. Cho nên, làm cho mọi người hết sợ chính là giúp họ vượt thoát một phần khổ đau và đây cũng là mục tiêu rốt cùng mà giáo lý Vô úy thí nhắm đến.

Vô úy là không sợ hãi, cũng còn gọi là Vô sở úy, Vô bố úy. Bố thí vô úy tức là trang bị cho mọi người, cho chúng sanh năng lực không còn sợ hãi. Muốn thực hiện pháp thí này, yêu cầu trước hết là hành giả phải tự trang bị cho mình khả năng thắng vượt tất cả những nỗi sợ hãi. Muốn thoát khỏi lo sợ, điều đầu tiên là phải biết nguyên nhân, nguồn gốc các nỗi sợ và can đảm đối diện với chúng.

Theo giáo lý đạo Phật, căn nguyên của mọi khổ đau trong đó bao hàm những nổi sợ hãi đều bắt nguồn từ Vô minh (không hiểu biết, không nhận chân được thực tướng của mọi sự vật và hiện tượng). Vì Vô minh nên  không nhận thức đúng đắn về  cái Tôi, về chính bản thân mình. Cái Tôi hay Tự ngã thực ra chỉ là một tổ hợp của Ngũ uẩn. Chính năm yếu tố Thân thể( Sắc), Cảm giác (Thọ), Tri giác (Tưởng), Tư duy (Hành) và Nhận thức (Thức) kết hợp một cách hài hòa để tạo ra con người, cái Tôi. Một điều cần phải thấy rằng, cái thế giới được con người nhận thức được thông qua ngũ quan chỉ là một phần rất nhỏ của thế giới thực tại. Do đó, luôn tồn tại nơi con người một nhận thức cố hữu: Đây là Tôi và thế giới của Tôi. Nhưng thực chất không có cái Tôi trường tồn, bất diệt; không có cái Tự ngã thuần nhất, bất biến và càng không có cái thế giới vĩnh cửu, thường hằng. Tất cả đều đang vận động, sinh diệt, trôi chảy và thay đổi trong từng phút, từng giây, thậm chí trong mỗi sát-na. Con người và thế giới luôn hiện hữu trong trạng thái Vô thường và Vô ngã.

Tất cả  mọi nỗi đau khổ và sợ hãi đều bắt nguồn từ  sự nhận thức sai lầm về Tự ngã, về cái Tôi. Khi cái Tôi bị đe doạ, bị mất an ninh thì lập tức xuất hiện một cơ chế phản ứng tự tồn trong tâm lý, nhằm bảo vệ Tự ngã, và đây chính là nguồn cội của mọi sự  lo sợ. Tu tập Vô úy là nổ lực quán sát về Ngũ uẩn để thấy được thực chất của con người, bản chất của cái Tôi được cấu thành trên cơ sở là Vô thường và Vô ngã.

Do bị Vô thường chi phối nên cái Tôi và thế giới của Tôi luôn thay đổi, biến hoại và sinh diệt. Tuy nhiên, sự dịch chuyển của cái Tôi ấy không phải ngẫu nhiên, tuỳ tiện mà tuân theo quy luật. Đó là luật Nhân quả, một hiệu ứng của Nghiệp do chính cá nhân tác tạo. Nếu chúng ta tạo nghiệp lành  sẽ được phước báo an vui, ngược lại nếu tạo ác nghiệp thì chắc chắn bị quả báo khổ đau. Do đó, dù sợ hãi hay không thì kết quả hạnh phúc hay khổ đau vẫn xảy đến tuỳ theo nghiệp thiện hay ác. Nhận thức được quy luật này, người Phật tử tu tập hạnh Vô úy luôn bình thản, không hề lo sợ hoặc kinh hãi trước bất kỳ biến cố nào, chỉ  nổ lực cải tạo nghiệp nhân của chính mình, dẫu cho thế sự thăng trầm, tình đời sáng nắng chiều mưa…  thậm chí xem thường cả cái chết.

 Chúng ta thường sợ hãi những điều đã xảy ra trong quá khứ hoặc lo sợ những bất hạnh sẽ ập đến đời mình trong tương lai. Có những nổi sợ mông lung, mơ hồ, gần như không xác định nguyên nhân và thời gian cụ thể. Theo Tâm lý học Phật giáo, đây là dấu ấn của biến cố đã xảy ra trong quá khứ, những kinh nghiệm của biến cố này được lưu giữ trong A-lại-da. Chúng sẽ phát huy tác dụng khi hội đủ điều kiện làm cho chúng ta cảm thấy bất an, bồn chồn hoặc sợ hãi. Gần hơn là những bất hạnh xảy ra khi chúng ta còn nhỏ, vết hằn của sự khiếp đảm, tủi nhục in đậm trong tâm thức khiến ta mất niềm tin, luôn “đề cao cảnh giác”. Song song với  những sợ hãi quá khứ, con người thường lo sợ về ngày mai. Ý tưởng tương lai mình sẽ thế nào, mình sẽ đi về đâu luôn ám ảnh, đeo bám khiến cho con người luôn ray rứt, sợ sệt. Người Phật tử tu tập hạnh Vô uý luôn nhận thức được rằng: Quá khứ là những điều đã qua, tương lai là những điều chưa đến, hai phạm trù này không có thật. Chỉ có hiện tại, mà hiện tại thì đang trôi chảy. Trong sát na hiện tại thì chẳng có gì phải lo lắng hoặc sợ hãi cả vì tâm đã an trú vào chánh niệm.

Khi đã đạt được sự bình an, tĩnh lặng, không còn dao động, không còn sợ hãi, người Phật tử đã thành tựu Vô úy. Phát nguyện dấn thân, đem sự bình an, không sợ hãi đến với mọi người, đó là hạnh Vô úy thí. Bồ tát Quán Thế Âm là một trong những vị Bồ tát thường đem sự Vô úy đến với những ai thành tâm niệm danh hiệu Ngài. Tuỳ theo hoàn cảnh và điều kiện của chúng sinh mà Ngài thị hiện để che chở và giúp đỡ khiến họ được bình an. Vì  hạnh nguyện bố thí Vô úy nên ngoài danh hiệu Quán Thế Âm, Ngài được xưng tụng là Bố Thí Vô Úy Giả.

Hiện tại bạn đang gặp nhiều bất hạnh, bạn lo lắng, hoang mang về tương lai của mình. Tương lai được làm bằng chất liệu của hiện tại nhưng tương lai là điều chưa xảy đến, vốn không thực. Do đó, lo sợ về tương lai là vọng tưởng. Bạn hãy an trú vào hiện tại, ngay đây và bây giờ. Đối diện với sợ hãi, nhận diện nó một cách rõ ràng, bạn sẽ tìm ra được nguyên nhân căn bản của mọi nổi sợ và cách thức giải quyết chúng. Giải toả tâm lý sợ hãi, theo Đạo Phật, là một quá trình nổ lực tu tập, chuyển hóa và khai phóng tâm thức, nhận ra bản chất của cái Tôi (tự ngã) vốn không thực. Nhờ sự duy trì tuệ quán thường trực về thân, tâm và thế giới là do duyên sinh, giả hợp, không có Tự ngã, không có cái Tôi thì tức khắc tất cả các thuộc tính của cái Tôi đều tan biến. Từ đây, hành giả dễ dàng vượt thoát mọi khổ đau, lo lắng và sợ hãi.

Tổ Tư vấn
Giác Ngộ Online

NIỆM PHẬT SẼ ÐOẠN ÐƯỢC PHIỀN NÃO, KHỔ ĐAU

Sức mạnh phá hoại của phiền não rất lớn, từ phiền não gốc, sinh ra biết bao phiền não cành lá, ngọn gốc trùng trùng không đếm xuể. Người đời phần nhiều hiểu sai về hai chữ “phiền não”, cho phiền não chỉ là khi gặp nghịch cảnh, sinh tâm bất như ý. Không biết rằng hai chữ phiền não là tên chung của tâm mê hoặc vi tế, như: tâm tham, tâm sân, tâm si, tâm nghi, tâm mạn, tâm tà kiến, là sáu thứ phiền não căn bản có thể sinh tất cả phiền não cành lá, như: tâm giải đãi, tâm phóng dật, tâm hôn trầm, tâm tán loạn, tâm vô tàm, tâm vô quý, tâm siểm khúc, tâm tật đố... cộng lại có hơn tám vạn, do các pháp hôn phiền ấy (các tâm tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến nói trên đây) hay não loạn chân tánh chúng sinh nên gọi là phiền não.

Phiền não là khổ nhân, sinh tử là khổ quả; không đoạn khổ nhân thì ắt phải nhận chịu khổ quả. Hết thảy chúng sinh đều theo phiền não hoặc mà tạo vô biên tội nghiệp, do đó hoặc nghiệp làm nhân mà chiêu quả báo sinh tử. Cho nên phát tâm tu hành là phải đoạn dứt phiền não. Phiền não là bệnh bên trong (nội tâm) của chúng sinh. Bệnh ngoài thân có thể mời bác sĩ chữa trị, còn có bệnh tâm phiền não này, Ðông Tây y đều phải thúc thủ, không một loại thuốc nào tác dụng. Chỉ có thuốc niệm Phật mà đấng vô thượng y vương tuyên thuyết mới trị được tâm bệnh phiền não mà thôi vậy.

Phiền não tuy nhiều nhưng chung quy không ngoài hai loại: Phiền não ngã chấp và phiền não pháp chấp. Chúng sinh trong ba cõi sáu đường đầy đủ hai phiền não chấp này.

Sao gọi là phiền não ngã chấp? Tất cả chúng sinh đều chấp thân này là thật ngã. Không biết rằng các pháp xưa nay vốn vô ngã, cái thân này là do ngũ ấm tích tụ mà thành, đâu có thể có thật ngã được.

Trước xét vô ngã của thân; thân thuộc sắc ấm là, địa, thủy, hỏa, phong tứ đại hòa hợp mà thành. Xương, thịt, gân, cốt thuộc Ðịa đại; đàm dãi máu mủ thuộc Thủy đại; hơi ấm toàn thân thuộc Hỏa đại; hơi thở vào ra, tất cả động tác thuộc Phong đại. Thân này ngoài tứ đại ra, cái gì là ta?

Thứ đến xét vô ngã của tâm, tâm thuộc bốn ấm thọ, tưởng, hành, thức, bốn ấm không ngoài tám thức. Tiền ngũ thức lãnh thọ cảnh giới của năm trần, là thọ ấm; thức thứ sáu, tưởng tượng nội cảnh pháp trần, là tưởng ấm; thức thứ bảy, dời đổi không ngừng, là hành ấm; thức thứ tám, chấp giữ thọ mạng, là thức ấm. Tám thức giới hạn rõ ràng, nội tâm bỏ tám thức này, cái gì là ta?

Sự giải thích bốn ấm trên đây chỉ là nói về tám thức, và không giống với chư gia. Chư gia lấy ba ấm thọ, tưởng, hành để chỉ ba tâm sở thọ, tưởng, tư trong năm tâm sở biến hành; thức ấm chỉ chung cho tám thức. Ý tâm pháp của ta, cộng có 8 tâm vương và 51 tâm sở, sao chỉ riêng lấy ba tâm sở phối thành ba ấm? Nên không theo giải thích ban đầu. Nay lại lấy thọ ấm chỉ tiền ngũ thức, bởi vì sức thọ ấm rất mạnh; tưởng ấm chỉ thức thứ sáu, vì sức của tưởng ấm mạnh hơn hết; hành ấm chỉ thức thứ bảy, vì thức này luôn đo lường, thẩm xét vậy; thức ấm riêng chỉ thức thứ tám, bởi thức này chấp giữ thọ mạng. Bốn ấm chỉ tám thức, có thể bao hàm cả tâm vương, tâm sở, tất cả tâm pháp đều ở hết bên trong, ba tâm sở thọ, tưởng, tư cũng không ngoại lệ.

Nay trong thân tâm hiện tại này, suy xét tỉ mỉ thì không có thật ngã. Lại tìm hiểu quá khứ trước khi cha mẹ sinh ra, nếu là hữu ngã thì ngã ở chỗ nào? Xét kỹ tương lai, sau khi mạng chung, nếu là hữu ngã thì làm thân tướng gì? Cả quá khứ, hiện tại, vị lai đều không có thật ngã. Chúng sinh không rõ lý vô ngã, mê chấp thân tâm cho là thật ngã, đó là phiền não ngã chấp, hay làm chướng ngại chân lý ngã không, đây thuộc đại bệnh thứ nhất của nội tâm.

Sao gọi là phiền não pháp chấp? Là hết thảy chúng sinh đều chấp tất cả các pháp thế gian là thật có, không biết rằng các pháp xưa nay không thật, như hoa đốm trong hư không, như cảnh trong mộng. Nên biết trong hư không vốn không có hoa đốm, do bị quáng nắng mà thấy thật có; cảnh trong mộng cũng thế, do ngủ say mà vọng thấy, đâu phải là cảnh thật. Tất cả các pháp thế gian cũng lại như thế. Kinh Kim Cang nói rằng: “Phàm cái gì có hình tướng đều là hư dối”. Chúng sinh mê chấp các tướng, cho là thật pháp, đó là phiền não pháp chấp, làm chướng ngại chân lý pháp không, đây là đại bệnh thứ hai của nội tâm.

Hai loại phiền não ngã chấp, pháp chấp của chúng sinh đều do ý tưởng hư dối phân biệt mà ra. Nếu không có pháp phương tiện đối trị thì không đoạn được hai chấp này. Cho nên Ðức Thích Ca Mâu Ni đã quán xét căn cơ mà nói pháp môn niệm Phật, dạy người xưng niệm danh hiệu A Di Ðà, lấy một niệm để trừ muôn niệm, khi vọng niệm đã trừ thì phiền não theo đó đoạn diệt. Một câu A Di Ðà Phật như thanh bảo kiếm Kim Cang vương; vọng niệm phiền não dụ như giặc cướp. Lúc giặc đến, huơ thanh bảo kiếm, giặc phải tự lui. Pháp niệm Phật cũng lại như thế. Lúc phiền não tham tâm khởi, nhất tâm niệm Phật thì tâm tham liền tự diệt, lúc tâm sân, tâm si khởi cũng đều như thế. Chuyên tâm vào sáu chữ Nam mô A Di Ðà Phật, nhất tâm bất loạn thì tất cả phiền não đều được đoạn trừ tận gốc.

Người đời phần nhiều không tin pháp môn niệm Phật, nói một câu niệm Phật thì tác dụng chỗ nào? Không biết một câu A Di Ðà Phật có thần lực không thể nghĩ bàn, trị được hết thảy tâm bệnh phiền não. Như thuốc A Già Ðà có thể chữa tất cả bệnh. Thuốc thế gian mà còn có công dụng thù thắng, một loại thuốc trừ được muôn bệnh, huống hồ là danh hiệu Phật vạn đức, bốn bước một câu A Di Ðà, bốn bước một câu thường hằng như thế, dần dần cảm thấy tâm địa thanh thoát, phiền não tự tiêu diệt. Lại có lúc nhiều việc, tâm ưu phiền, đêm dài không an giấc cũng chuyên tâm niệm danh hiệu Phật, lát sau thì thân tâm được an định, sẽ đi vào giấc ngủ dễ dàng, lại không có mộng mị. Lúc biên chép cũng niệm Phật không ngừng, mỗi nét bút là một danh hiệu Phật, chánh niệm không tán loạn thì viết lâu cũng không thấy nhọc nhằn. Nếu người người đều tin pháp môn niệm Phật này, tinh tấn không ngừng nghỉ, niệm đến tâm cảnh đều vắng lặng thì phiền não không có chỗ sinh. Hoặc bảo rằng: Niệm Phật cầu sinh Tây phương, tham cầu cái vui của thế giới Cực lạc thì đây cũng là tâm tham. Tham là căn bản trong phiền não, là phiền não thứ nhất, tâm tham không trừ, sao được gọi là niệm Phật đoạn trừ được phiền não? Ðáp rằng: Tuy cùng gọi là tham nhưng cái thật của tham thì khác nhau trời vực. Người đời tham trước cái vui của trần lao, vui này là nhân của khổ thì tham này là gốc sinh tử. Nay niệm Phật tham cầu cái lạc của thế giới Cực lạc, cái lạc này là cái lạc ly khổ nên tham này là pháp giải thoát. Ðức Phật dạy người niệm Phật chính là soi thấu căn cơ, quán thấy chúng sinh tham luyến năm cảnh trần sắc, thanh, hương, vị, xúc của thế gian không một phút lìa bỏ, lấy khổ làm vui, nên dạy người niệm Phật tương tục, cầu ra khỏi Ta bà sinh Tịnh độ cảnh, và được hưởng thụ niềm vui Cực lạc, đây chính là chân tham.

Phật dạy niệm Phật cầu sinh Tịnh độ, ly khổ đắc lạc là hợp với tâm chán khổ tham lạc của chúng sinh, chính là phương pháp lấy tham dừng tham. Lấy cái tham cầu sinh Cực lạc để trừ những cái tham cầu ngũ trược thế gian. Nếu không có cái tham này thì những cái tham tầm thường không cách gì trừ được. Thí như âm thanh chỉ tĩnh, nếu không có âm thanh này thì không dừng được những âm thanh tạp loạn kia. Ví dụ: Có mấy người đang huyên náo ầm ĩ, bỗng một người đứng lên nói lớn: “Mọi người im lặng!”. Âm thanh ấy vừa phát ra thì không còn ai nói chuyện nữa. Nay cái tham tham cầu Cực lạc cũng lại như vậy, không những không có hại mà còn được lợi ích rất lớn. Tôi thường ngày thấy lầu các, vườn cây thanh tịnh, sinh tâm ái mộ bèn nghĩ đến hàng cây báu, lưới lưu ly, lầu vàng ở thế giới Cực lạc thù thắng vi diệu hơn bội lần! Không cần phải tham những gì thuộc về thế gian này, nhanh chóng nhất tâm niệm Phật cầu sinh nước ấy; hoặc nghe những âm thanh êm dịu, liền nhớ đến Tây phương, hàng cây lưới báu phát ra những âm thanh vi diệu, thí như trăm ngàn âm nhạc cùng khởi lên một lúc; hoặc ngửi các hương thơm, bèn nhớ đến Tây phương, nước tám công đức trong ao sen lúc nào cũng thoang thoảng hương thơm vi diệu; hoặc thấy ăn ngon mặc đẹp, liền nhớ đến Tây phương, nghĩ đến áo có áo, nghĩ đến ăn có ăn; nên đối năm trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, vì hâm mộ mong ước thắng cảnh của Tây phương mà tâm tham đắm dần tiêu.

Nay thử nghiền ngẫm thế giới Ta bà – đủ thứ khổ não, thật là đáng chán lìa, không có chút nào đáng tham đắm cả. Nói về tu hành thì Ta bà khó tu, Cực lạc dễ tiến. Ðem hai cõi một khổ một vui so sánh, lược đưa ra mười loại là: 1/ Cõi này khổ vì không thường có Phật; Cực lạc thì hoa khai kiến Phật. 2/ Cõi này khó được nghe Phật pháp, Cực lạc thì tiếng chim kêu tiếng nước chảy đều là tuyên thuyết diệu pháp. 3/ Cõi này khổ vì bạn ác vây quanh, Cực lạc thì toàn chư thượng thiện nhân. 4/ Cõi này khổ vì thường hay bị ma quấy nhiễu, Cực lạc thì có chư Phật hộ niệm. 5/ Cõi này bị luân hồi không dừng nghỉ, Cực lạc thì dứt hẳn sinh tử. 6/ Cõi này khó tránh khỏi ba đường khổ, Cực lạc thì vĩnh ly ác đạo, thậm chí còn không nghe đến tiếng ác. 7/ Cõi này bị duyên đời chướng đạo, Cực lạc thì tự nhiên thọ dụng, không cần kinh doanh làm lụng. 8/ Cõi này thọ mạng ngắn ngủi, Cực lạc thì thọ mạng vô lượng. 9/ Cõi này tu hành thoái thất, Cực lạc thì bất thoái chuyển. 10/ Cõi này khó thành tựu Phật đạo, Cực lạc thì được nhất sinh bổ xứ, nhanh thành tựu vô thượng Bồ đề. Quán mười điều so sánh trên đây thì cái tham cầu niệm Phật vãng sinh là đại tham, tức cái tham này dứt được tham sân si, dập tắt được tất cả tâm bệnh phiền não. Mong hết thảy mọi người đều tham cầu vãng sinh Cực lạc, thì sẽ không còn tham đắm dục cảnh năm trần của thế giới Ta bà. Tuy cùng là tham nhưng thật không thể khái luận chung được. Tôi có một bài kệ khuyên tu Tịnh độ rằng: “Thời gian trăm tuổi có bao nhiêu, khuyên anh hãy sớm niệm Phật nhiều; đừng tham nhục dục Ta bà cõi, về Tây phương cảnh sướng hơn nhiều”.

(Tác giả: Pháp sư VIÊN ANH - Thích Nguyên Anh biên dịch)

Thứ Bảy, 6 tháng 4, 2013

Danh xưng đệ tử Phật

PHẬT HỌC THƯỜNG THỨC

Phân biệt thế nào là Phật tử, Cư Sĩ, Ưu Bà tắc, Ưu Bà Di, Cận Sự Nam, Cận Sự Nữ ? Thiện nam, Tín nữ?


• Phật tử là gì? 佛子 A: Buddhist. P: Bouddhiste
Phật tử theo tiếng Hán việt nghĩa là con Phật, là đệ tử của Phật là từ chỉ chung cho cả hai hạng xuất gia và tại gia.Theo kinh điển cho rằng: Phật tử là từ miệng Phật mà sinh ra, từ Pháp mà hóa sinh ra, được vài phần Phật pháp nên được gọi là Phật tử ( tức con Phật) nghĩa là theo lời dạy mà tu hành tuân theo chánh Pháp mà sống ví như nhờ có Phật và Pháp mới có mình.Vậy Phật tử là từ chỉ chung cho hàng đệ tử Phật bất luận tại gia hay xuất gia chứ không dùng riêng cho tại gia như trước nay thường hiểu.
Trong Tứ thập nhị chương kinh, cĩ lời Phật dạy:
"Những Phật tử, tuy cách xa Ta hằng ngàn dặm mà nhớ giữ những Giới luật của Ta, chắc là tu đắc đạo. Cịn những người thường ở với Ta, theo bên tả bên hữu, tuy thường thấy Ta mà khơng thuận theo Giới luật của Ta thì khơng đắc đạo."


*Cư Sĩ là gì? 居 士
Cư Sĩ là từ riêng dùng để chỉ người đệ tử tại gia tu học theo đạo Phật đã có quy y Tam Bảo và thọ trì giới cấm của Phật.Cư Sĩ lại phân ra nhiều loại như Cư sĩ Ngũ giới, cư sĩ Bát giới, cư sĩ Thập thiện, cư sĩ Bồ tát giới. Vậy từ Cư Sĩ là từ chỉ chung cho hàng đệ tử tại gia cả nam lẫn nữ nhưng thông thường từ Cư Sĩ thường dùng cho những đệ tử tại gia có thông hiểu giáo lý Phật pháp và hành trì giới luật nghiêm mật,có chí nguyện rộng lớn phổ độ chúng sinh hoằng dương truyền bá Phật pháp, có khả năng đảm đương những trọng trách , là tiêu biểu trong hàng ngũ tại gia.


*Ưu Bà Tắc là gì? Tiếng Phạn là Upasaka

Ưu Bà Tắc là từ chỉ riêng cho người đệ tử Phật tại gia thuộc phái nam đã thọ tam quy và ngũ giới.Lại chia ra 3 hạng Ưu Bà Tắc như sau:
- Thiểu phần Ưu Bà Tắc: để chỉ người nam nào chỉ lãnh thọ và hành trì được từ 1-2 giới trong ngũ giới cấm
- Đa phần Ưu Bà Tắc: để chỉ người nam nào giữ được từ 3-4 giới trong ngũ giới cấm
- Toàn phần Ưu Bà Tắc: để chỉ người nam nào vâng giữ trọn vẹn cả 5 giới cấm.


*Ưu Bà Di là gì? Tiếng Phạn là Upasika
Ưu bà Di là từ dùng để chỉ riêng cho người đệ tử Phật tại gia thuộc phái nữ đã thọ tam quy và ngũ giới.Lại chia ra 3 hạng Ưu Bà Di như sau:
- Thiểu phần Ưu Bà Di: để chỉ người nữ nào chỉ lãnh thọ và hành trì được từ 1-2 giới trong ngũ giới cấm
- Đa phần Ưu Bà Di: để chỉ người nữ nào giữ được từ 3-4 giới trong ngũ giới cấm
- Toàn phần Ưu Bà Di: để chỉ người nữ nào vâng giữ trọn vẹn cả 5 giới cấm.
*Cũng theo giới luật đã thọ được bao nhiêu mà phân ra đó là Ưu bà Tắc ( Ưu bà di) thiểu phần, đa phần hay toàn phần.


*Cận sự nam (cận sự nữ): là người đệ tử tại gia đã thọ trì tam quy và ngũ giới nhưng hay gần gũi chùa tháp Tam Bảo để phụng sự hộ trì Phật pháp, biết áp dụng lời Phật dạy vào trong tu tập đời sống hàng ngày từ hành động lời nói ý nghĩ việc làm đều trong chánh niệm tỉnh giác và thấm nhuần tính chất từ bi của đạo Phật.Cận sự nam hay Cận sự nữ là những người đã dày công với đạo thường góp phần tu bổ chùa tháp phát tâm làm những việc phước thiện lợi ích cho đạo và đời xứng đáng là một hàng ngũ đắc lực đóng vai trò hộ pháp cho chư Tăng.


*Thiện nam, Tín nữ: 善男 - 信女
Thiện nam là từ chỉ người nam ( trai lành) Tín nữ là từ chỉ người nữ ( gái có lòng tin) có thiện căn , có gieo duyên với Phật nhưngcó thể vì lý do nào đó mà chưa quy y Tam Bảo chỉ mới phát lòng tin kính Phật pháp.Thiện nam Tín nữ còn dùng chỉ chung cho số đông những người có mặt là nam giới hay nữ giới trong một pháp hội mà trong đó khó phân biệt ai là Phật Tử hay không Phật Tử
Như vậy phân biệt rõ ý nghĩa và cách dùng các thuật ngữ Phật giáo trên giúp cho chúng ta trước hết biết dùng đúng từ và cách xưng hô khi giao tiếp hay ký tên trên văn bản , bài viết …. Đồng thời định hướng rõ cho mình đường đi sắp tới ngõ hầu phấn đấu tự thân tinh tấn trên con đường học đạo giác ngộ và giải thoát Danh tự chỉ phản ánh đúng thực chất việc làm của nó chứ trình độ tu chứng không nằm ở danh xưng, vì thế chúng ta phải nhớ rằng mọi nỗ lực phấn đấu tu tập của chúng ta đều không ngòai mục tiêu chung là giác ngộ chân lý cộng với sự tu tập hành trì của bản thân mới là quan trọng, tên gọi danh xưng chỉ là phương tiện thế gian có tác dụng bước đầu hỗ trợ người tu thăng tiến trên lộ trình tu học nhưng nó cũng ngầm đẩy người đang mang danh phận đó vaò hố thẳm vực sâu nếu họ mãi chạy theo đi tìm ảo vọng mà bỏ quên đạo nghiệp của chính mình.


CƯ trần lạc đạo hãy tùy duyên,
SĨ diện làm chi lắm lụy phiền !!!
PHẬT pháp hữu duyên năng dưỡng tánh
TỬ lưu hậu thế sử còn biên.

HUỆ NHÂN