Sức mạnh phá hoại của phiền não rất lớn, từ phiền não gốc, sinh ra biết
bao phiền não cành lá, ngọn gốc trùng trùng không đếm xuể. Người đời
phần nhiều hiểu sai về hai chữ “phiền
não”, cho phiền não chỉ là khi gặp nghịch cảnh, sinh tâm bất như ý.
Không biết rằng hai chữ phiền não là tên chung của tâm mê hoặc vi tế,
như: tâm tham, tâm sân, tâm si, tâm nghi, tâm mạn, tâm tà kiến, là sáu
thứ phiền não căn bản có thể sinh tất cả phiền não cành lá, như: tâm
giải đãi, tâm phóng dật, tâm hôn trầm, tâm tán loạn, tâm vô tàm, tâm vô
quý, tâm siểm khúc, tâm tật đố... cộng lại có hơn tám vạn, do các pháp
hôn phiền ấy (các tâm tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến nói trên đây)
hay não loạn chân tánh chúng sinh nên gọi là phiền não.
Phiền
não là khổ nhân, sinh tử là khổ quả; không đoạn khổ nhân thì ắt phải
nhận chịu khổ quả. Hết thảy chúng sinh đều theo phiền não hoặc mà tạo vô
biên tội nghiệp, do đó hoặc nghiệp làm nhân mà chiêu quả báo sinh tử.
Cho nên phát tâm tu hành là phải đoạn dứt phiền não. Phiền não là bệnh
bên trong (nội tâm) của chúng sinh. Bệnh ngoài thân có thể mời bác sĩ
chữa trị, còn có bệnh tâm phiền não này, Ðông Tây y đều phải thúc thủ,
không một loại thuốc nào tác dụng. Chỉ có thuốc niệm Phật mà đấng vô
thượng y vương tuyên thuyết mới trị được tâm bệnh phiền não mà thôi vậy.
Phiền não tuy nhiều nhưng chung quy không ngoài hai loại: Phiền não ngã
chấp và phiền não pháp chấp. Chúng sinh trong ba cõi sáu đường đầy đủ
hai phiền não chấp này.
Sao gọi là phiền não ngã chấp? Tất cả
chúng sinh đều chấp thân này là thật ngã. Không biết rằng các pháp xưa
nay vốn vô ngã, cái thân này là do ngũ ấm tích tụ mà thành, đâu có thể
có thật ngã được.
Trước xét vô ngã của thân; thân thuộc sắc ấm
là, địa, thủy, hỏa, phong tứ đại hòa hợp mà thành. Xương, thịt, gân, cốt
thuộc Ðịa đại; đàm dãi máu mủ thuộc Thủy đại; hơi ấm toàn thân thuộc
Hỏa đại; hơi thở vào ra, tất cả động tác thuộc Phong đại. Thân này ngoài
tứ đại ra, cái gì là ta?
Thứ đến xét vô ngã của tâm, tâm thuộc
bốn ấm thọ, tưởng, hành, thức, bốn ấm không ngoài tám thức. Tiền ngũ
thức lãnh thọ cảnh giới của năm trần, là thọ ấm; thức thứ sáu, tưởng
tượng nội cảnh pháp trần, là tưởng ấm; thức thứ bảy, dời đổi không
ngừng, là hành ấm; thức thứ tám, chấp giữ thọ mạng, là thức ấm. Tám thức
giới hạn rõ ràng, nội tâm bỏ tám thức này, cái gì là ta?
Sự
giải thích bốn ấm trên đây chỉ là nói về tám thức, và không giống với
chư gia. Chư gia lấy ba ấm thọ, tưởng, hành để chỉ ba tâm sở thọ, tưởng,
tư trong năm tâm sở biến hành; thức ấm chỉ chung cho tám thức. Ý tâm
pháp của ta, cộng có 8 tâm vương và 51 tâm sở, sao chỉ riêng lấy ba tâm
sở phối thành ba ấm? Nên không theo giải thích ban đầu. Nay lại lấy thọ
ấm chỉ tiền ngũ thức, bởi vì sức thọ ấm rất mạnh; tưởng ấm chỉ thức thứ
sáu, vì sức của tưởng ấm mạnh hơn hết; hành ấm chỉ thức thứ bảy, vì thức
này luôn đo lường, thẩm xét vậy; thức ấm riêng chỉ thức thứ tám, bởi
thức này chấp giữ thọ mạng. Bốn ấm chỉ tám thức, có thể bao hàm cả tâm
vương, tâm sở, tất cả tâm pháp đều ở hết bên trong, ba tâm sở thọ,
tưởng, tư cũng không ngoại lệ.
Nay trong thân tâm hiện tại này,
suy xét tỉ mỉ thì không có thật ngã. Lại tìm hiểu quá khứ trước khi cha
mẹ sinh ra, nếu là hữu ngã thì ngã ở chỗ nào? Xét kỹ tương lai, sau khi
mạng chung, nếu là hữu ngã thì làm thân tướng gì? Cả quá khứ, hiện tại,
vị lai đều không có thật ngã. Chúng sinh không rõ lý vô ngã, mê chấp
thân tâm cho là thật ngã, đó là phiền não ngã chấp, hay làm chướng ngại
chân lý ngã không, đây thuộc đại bệnh thứ nhất của nội tâm.
Sao
gọi là phiền não pháp chấp? Là hết thảy chúng sinh đều chấp tất cả các
pháp thế gian là thật có, không biết rằng các pháp xưa nay không thật,
như hoa đốm trong hư không, như cảnh trong mộng. Nên biết trong hư không
vốn không có hoa đốm, do bị quáng nắng mà thấy thật có; cảnh trong mộng
cũng thế, do ngủ say mà vọng thấy, đâu phải là cảnh thật. Tất cả các
pháp thế gian cũng lại như thế. Kinh Kim Cang nói rằng: “Phàm cái gì có
hình tướng đều là hư dối”. Chúng sinh mê chấp các tướng, cho là thật
pháp, đó là phiền não pháp chấp, làm chướng ngại chân lý pháp không, đây
là đại bệnh thứ hai của nội tâm.
Hai loại phiền não ngã chấp,
pháp chấp của chúng sinh đều do ý tưởng hư dối phân biệt mà ra. Nếu
không có pháp phương tiện đối trị thì không đoạn được hai chấp này. Cho
nên Ðức Thích Ca Mâu Ni đã quán xét căn cơ mà nói pháp môn niệm Phật,
dạy người xưng niệm danh hiệu A Di Ðà, lấy một niệm để trừ muôn niệm,
khi vọng niệm đã trừ thì phiền não theo đó đoạn diệt. Một câu A Di Ðà
Phật như thanh bảo kiếm Kim Cang vương; vọng niệm phiền não dụ như giặc
cướp. Lúc giặc đến, huơ thanh bảo kiếm, giặc phải tự lui. Pháp niệm Phật
cũng lại như thế. Lúc phiền não tham tâm khởi, nhất tâm niệm Phật thì
tâm tham liền tự diệt, lúc tâm sân, tâm si khởi cũng đều như thế. Chuyên
tâm vào sáu chữ Nam mô A Di Ðà Phật, nhất tâm bất loạn thì tất cả phiền
não đều được đoạn trừ tận gốc.
Người đời phần nhiều không tin
pháp môn niệm Phật, nói một câu niệm Phật thì tác dụng chỗ nào? Không
biết một câu A Di Ðà Phật có thần lực không thể nghĩ bàn, trị được hết
thảy tâm bệnh phiền não. Như thuốc A Già Ðà có thể chữa tất cả bệnh.
Thuốc thế gian mà còn có công dụng thù thắng, một loại thuốc trừ được
muôn bệnh, huống hồ là danh hiệu Phật vạn đức, bốn bước một câu A Di Ðà,
bốn bước một câu thường hằng như thế, dần dần cảm thấy tâm địa thanh
thoát, phiền não tự tiêu diệt. Lại có lúc nhiều việc, tâm ưu phiền, đêm
dài không an giấc cũng chuyên tâm niệm danh hiệu Phật, lát sau thì thân
tâm được an định, sẽ đi vào giấc ngủ dễ dàng, lại không có mộng mị. Lúc
biên chép cũng niệm Phật không ngừng, mỗi nét bút là một danh hiệu Phật,
chánh niệm không tán loạn thì viết lâu cũng không thấy nhọc nhằn. Nếu
người người đều tin pháp môn niệm Phật này, tinh tấn không ngừng nghỉ,
niệm đến tâm cảnh đều vắng lặng thì phiền não không có chỗ sinh. Hoặc
bảo rằng: Niệm Phật cầu sinh Tây phương, tham cầu cái vui của thế giới
Cực lạc thì đây cũng là tâm tham. Tham là căn bản trong phiền não, là
phiền não thứ nhất, tâm tham không trừ, sao được gọi là niệm Phật đoạn
trừ được phiền não? Ðáp rằng: Tuy cùng gọi là tham nhưng cái thật của
tham thì khác nhau trời vực. Người đời tham trước cái vui của trần lao,
vui này là nhân của khổ thì tham này là gốc sinh tử. Nay niệm Phật tham
cầu cái lạc của thế giới Cực lạc, cái lạc này là cái lạc ly khổ nên tham
này là pháp giải thoát. Ðức Phật dạy người niệm Phật chính là soi thấu
căn cơ, quán thấy chúng sinh tham luyến năm cảnh trần sắc, thanh, hương,
vị, xúc của thế gian không một phút lìa bỏ, lấy khổ làm vui, nên dạy
người niệm Phật tương tục, cầu ra khỏi Ta bà sinh Tịnh độ cảnh, và được
hưởng thụ niềm vui Cực lạc, đây chính là chân tham.
Phật dạy
niệm Phật cầu sinh Tịnh độ, ly khổ đắc lạc là hợp với tâm chán khổ tham
lạc của chúng sinh, chính là phương pháp lấy tham dừng tham. Lấy cái
tham cầu sinh Cực lạc để trừ những cái tham cầu ngũ trược thế gian. Nếu
không có cái tham này thì những cái tham tầm thường không cách gì trừ
được. Thí như âm thanh chỉ tĩnh, nếu không có âm thanh này thì không
dừng được những âm thanh tạp loạn kia. Ví dụ: Có mấy người đang huyên
náo ầm ĩ, bỗng một người đứng lên nói lớn: “Mọi người im lặng!”. Âm
thanh ấy vừa phát ra thì không còn ai nói chuyện nữa. Nay cái tham tham
cầu Cực lạc cũng lại như vậy, không những không có hại mà còn được lợi
ích rất lớn. Tôi thường ngày thấy lầu các, vườn cây thanh tịnh, sinh tâm
ái mộ bèn nghĩ đến hàng cây báu, lưới lưu ly, lầu vàng ở thế giới Cực
lạc thù thắng vi diệu hơn bội lần! Không cần phải tham những gì thuộc về
thế gian này, nhanh chóng nhất tâm niệm Phật cầu sinh nước ấy; hoặc
nghe những âm thanh êm dịu, liền nhớ đến Tây phương, hàng cây lưới báu
phát ra những âm thanh vi diệu, thí như trăm ngàn âm nhạc cùng khởi lên
một lúc; hoặc ngửi các hương thơm, bèn nhớ đến Tây phương, nước tám công
đức trong ao sen lúc nào cũng thoang thoảng hương thơm vi diệu; hoặc
thấy ăn ngon mặc đẹp, liền nhớ đến Tây phương, nghĩ đến áo có áo, nghĩ
đến ăn có ăn; nên đối năm trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, vì hâm mộ
mong ước thắng cảnh của Tây phương mà tâm tham đắm dần tiêu.
Nay thử nghiền ngẫm thế giới Ta bà – đủ thứ khổ não, thật là đáng chán
lìa, không có chút nào đáng tham đắm cả. Nói về tu hành thì Ta bà khó
tu, Cực lạc dễ tiến. Ðem hai cõi một khổ một vui so sánh, lược đưa ra
mười loại là: 1/ Cõi này khổ vì không thường có Phật; Cực lạc thì hoa
khai kiến Phật. 2/ Cõi này khó được nghe Phật pháp, Cực lạc thì tiếng
chim kêu tiếng nước chảy đều là tuyên thuyết diệu pháp. 3/ Cõi này khổ
vì bạn ác vây quanh, Cực lạc thì toàn chư thượng thiện nhân. 4/ Cõi này
khổ vì thường hay bị ma quấy nhiễu, Cực lạc thì có chư Phật hộ niệm. 5/
Cõi này bị luân hồi không dừng nghỉ, Cực lạc thì dứt hẳn sinh tử. 6/ Cõi
này khó tránh khỏi ba đường khổ, Cực lạc thì vĩnh ly ác đạo, thậm chí
còn không nghe đến tiếng ác. 7/ Cõi này bị duyên đời chướng đạo, Cực lạc
thì tự nhiên thọ dụng, không cần kinh doanh làm lụng. 8/ Cõi này thọ
mạng ngắn ngủi, Cực lạc thì thọ mạng vô lượng. 9/ Cõi này tu hành thoái
thất, Cực lạc thì bất thoái chuyển. 10/ Cõi này khó thành tựu Phật đạo,
Cực lạc thì được nhất sinh bổ xứ, nhanh thành tựu vô thượng Bồ đề. Quán
mười điều so sánh trên đây thì cái tham cầu niệm Phật vãng sinh là đại
tham, tức cái tham này dứt được tham sân si, dập tắt được tất cả tâm
bệnh phiền não. Mong hết thảy mọi người đều tham cầu vãng sinh Cực lạc,
thì sẽ không còn tham đắm dục cảnh năm trần của thế giới Ta bà. Tuy cùng
là tham nhưng thật không thể khái luận chung được. Tôi có một bài kệ
khuyên tu Tịnh độ rằng: “Thời gian trăm tuổi có bao nhiêu, khuyên anh
hãy sớm niệm Phật nhiều; đừng tham nhục dục Ta bà cõi, về Tây phương
cảnh sướng hơn nhiều”.
(Tác giả: Pháp sư VIÊN ANH - Thích Nguyên Anh biên dịch)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét