Đức Dalai Lama 14
Đức Phật đã nói rằng trong tất cả
những mùa khác nhau để cày cấy, mùa
thu là mùa tốt nhất, trong tất cả
những loại nhiên liệu để đốt, thì
phân bò là tốt nhất, và trong tất cả
những loại tỉnh giác khác nhau, sự
tỉnh giác về sự vô thường và cái
chết thì hữu hiệu nhất.
Cái chết là điều nhất định, nhưng
khi nào nó giáng xuống thì bất định.
Nếu chúng ta thực sự đương đầu với
sự việc, chúng ta không biết được
cái gì sẽ tới trước – ngày mai hay
cái chết. Chúng ta không thể hoàn
toàn quả quyết rằng người già sẽ
chết trước và người trẻ còn ở lại
phía sau.
Thái độ thực tế nhất mà ta có thể
nuôi dưỡng là hy vọng điều tốt đẹp
nhất nhưng chuẩn bị điều tồi tệ nhất.
Nếu điều xấu nhất không xảy ra thì
mọi sự đều tốt đẹp, nhưng nếu nó xảy
ra, nó sẽ không tấn công chúng ta
bất ngờ.
Điều này cũng ứng dụng cho sự thực
hành Pháp: chuẩn bị cho điều tồi tệ
nhất vì không ai trong chúng ta biết
được khi nào mình chết. Mỗi ngày
chúng ta biết tin về cái chết trong
báo chí hay cái chết của một người
bạn, của người nào đó mà ta biết
mang máng, hay của một người thân.
Đôi khi chúng ta cảm thấy mất mát,
đôi lúc chúng ta hầu như vui sướng,
nhưng một cách nào đó, chúng ta vẫn
còn bám chặt vào ý tưởng rằng điều
đó sẽ không xảy ra cho ta.
Chúng ta nghĩ rằng mình được miễn
trừ đối với sự vô thường, và vì thế
chúng ta trì hỗn sự tu hành tâm linh
(nó có thể chuẩn bị cho chúng ta
trước cái chết), và cho rằng ta sẽ
còn thời gian trong tương lai. Khi
thời điểm không thể tránh khỏi xảy
tới, điều duy nhất chúng ta phải
mang đi là niềm hối tiếc. Chúng ta
cần phải đi vào sự thực hành ngay
lập tức để dù cái chết có tới sớm
thế nào chăng nữa, chúng ta cũng sẽ
sẵn sàng.
Khi cái chết đến, không điều gì có
thể ngăn cản nó. Dù bạn có loại thân
thể nào, dù bạn có thể trơ trơ đối
với bệnh tật thế nào chăng nữa, cái
chết sẽ chắc chắn giáng xuống. Nếu
chúng ta ngẫm nghĩ về cuộc đời của
chư Phật và Bồ Tát trong quá khứ thì
nay các Ngài chỉ còn là một ký ức.
Các Đạo sư Ấn Độ vĩ đại như ngài
Nagarjuna (Long Thọ) và Asanga (Vô
Trước) đã có những đóng góp to lớn
cho Pháp và làm việc vì lợi lạc của
chúng sinh, nhưng giờ đây tất cả
những gì còn lại của các ngài chỉ là
những cái tên. Đối với những nhà cai
trị và các nhà lãnh đạo chính trị
thì cũng thế.
Tiểu sử của các vị sống động đến nỗi
hầu như họ vẫn còn sống. Khi chúng
ta đi hành hương Ấn Độ, ta thấy
những nơi như Đại Tu viện Nalanda,
là nơi các bậc Thầy vĩ đại như
Nagarjuna và Asanga đã học tập và
dạy dỗ. Ngày nay Nalanda đã đổ nát.
Khi nhìn những dấu tích để lại của
những nhân vật vĩ đại trong lịch sử,
cảnh điêu tàn chỉ cho ta thấy bản
chất của sự vô thường.
Như những Phật ngôn cổ xưa nói, dù
ta chui xuống lòng đất hay đi vào
biển cả hoặc vào không gian, chúng
ta sẽ không bao giờ tránh được cái
chết. Những người trong chính gia
đình chúng ta chẳng sớm thì muộn sẽ
chia lìa nhau như đám lá bị gió thổi
tung. Trong một hai tháng tới, vài
người trong chúng ta sẽ chết, và
những người khác sẽ chết trong ít
năm.
Trong tám mươi hay chín mươi năm,
tất cả chúng ta, kể cả Đạt Lai Lạt
Ma sẽ chết. Khi ấy, chỉ có những sự
thấu suốt tâm linh của ta là giúp
ích được cho ta. Không ai sau khi
sinh ra mà càng lúc càng cách xa cái
chết. Thay vào đó, mỗi ngày chúng ta
tới gần cái chết hơn, giống như súc
vật đang bị dẫn tới lò sát sinh.
Giống như những người chăn bò đánh
đập bò của họ và dẫn chúng về chuồng,
chúng ta cũng bị hành hạ bởi những
nỗi đau khổ của sinh, lão, bệnh, tử,
luôn luôn tiến gần tới lúc kết thúc
của đời ta. Mọi sự trong vũ trụ này
bị lệ thuộc vào lẽ vô thường và cuối
cùng sẽ bị tan rã.
Như Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ bảy đã
nói, những thanh thiếu niên trông
rất mạnh mẽ và khỏe khoắn nhưng lại
chết trẻ là những vị Thầy thực sự
dạy cho chúng ta về sự vô thường.
Trong tất cả những người chúng ta
biết hay nhìn thấy, sẽ không ai còn
sống trong một trăm năm nữa. Cái
chết không thể bị đẩy lui bởi các
mật chú hay bởi tìm kiếm sự nương
tựa ở một nhà lãnh đạo chính trị tài
ba. Trải qua những năm tháng cuộc
đời, tôi đã gặp gỡ rất nhiều người.
Giờ đây họ chỉ còn là những hình
bóng trong ký ức tôi.
Ngày nay tôi lại gặp thêm những
người mới. Thật giống như xem một vở
kịch: sau khi đóng xong vai tuồng
của mình, người ta thay đổi xiêm y
và lại xuất hiện. Nếu chúng ta tiêu
phí cuộc đời ngắn ngủi của mình dưới
ảnh hưởng của sự tham luyến và oán
ghét, nếu vì lợi ích của những cuộc
đời ngắn ngủi đó mà chúng ta tăng
trưởng những mê lầm của mình thì mối
tai họa chúng ta tạo tác sẽ rất lâu
dài, vì nó phá hủy những triển vọng
thành tựu hạnh phúc tối hậu của
chúng ta. Nếu đôi lúc chúng ta không
thành đạt trong những vấn đề thế tục
tầm thường, điều đó không quan trọng
lắm, nhưng nếu chúng ta lãng phí cơ
may quý báu có được nhờ đời người
này, thì bản thân chúng ta sẽ bị
trầm luân trong thời gian dài.
Tương lai ở trong tay ta – dù chúng
ta muốn trải qua sự đau khổ cùng cực
do rơi vào những cõi luân hồi phi-nhân,
hay ta muốn thành tựu những hình
thức cao hơn của sự tái sinh, hoặc
ta muốn đạt tới trạng thái giác ngộ.
Ngài Shantideva nói rằng trong đời
này chúng ta có cơ hội, trách nhiệm,
có khả năng lựa chọn và quyết định
những đời tương lai của ta sẽ như
thế nào.
|
Chúng ta nên tu hành tâm thức của mình để
cuộc đời ta sẽ không bị lãng phí – không
lãng phí ngay cả một tháng hay một ngày – và
chuẩn bị khi cái chết đến. Nếu chúng ta có
thể nuôi dưỡng sự hiểu biết đó thì động lực
cho thực hành tâm linh sẽ phát sinh – đó là
động lực mạnh mẽ nhất. Geshe Sharawa
(1070-1141) nói rằng vị Thầy tốt nhất của
ngài là sự thiền định về lẽ vô thường.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy trong giáo huấn
đầu tiên của ngài rằng nền tảng của sự đau
khổ là vô thường. Khi phải đối diện với cái
chết, các hành giả lỗi lạc nhất sẽ hoan hỉ,
các hành giả trung bình sẽ được chuẩn bị tốt
đẹp, và ngay cả các hành giả hạ căn nhất sẽ
không có gì để hối tiếc. Khi chúng ta đi tới
ngày cuối cùng của đời mình, điều tối quan
trọng là đừng có ngay cả một day dứt của sự
hối tiếc, hoặc điều tiêu cực mà chúng ta
kinh nghiệm khi hấp hối có thể ảnh hưởng tới
sự tái sinh kế tiếp của ta.
Phương cách tốt nhất để làm cho cuộc đời có
ý nghĩa là sống theo con đường của lòng bi
mẫn. Nếu bạn nghĩ tưởng về cái chết và sự vô
thường, bạn sẽ bắt đầu làm cho cuộc đời bạn
có ý nghĩa. Bạn có thể cho rằng vì sớm muộn
gì bạn cũng phải chết thì không cần cố gắng
nghĩ về cái chết vào lúc này, bởi nó sẽ chỉ
khiến bạn ngã lòng và lo lắng. Nhưng sự tỉnh
giác về cái chết và lẽ vô thường có thể có
những lợi lạc to lớn. Nếu tâm thức chúng ta
bị vướng mắc bởi cảm tưởng rằng mình không
bị lệ thuộc vào cái chết, thì chúng ta sẽ
chẳng bao giờ nghiêm túc trong sự thực hành
của mình và chẳng bao giờ tiến bộ trên con
đường tâm linh.
Sự tin tưởng rằng bạn sẽ không chết là
chướng ngại to lớn nhất cho tiến bộ tâm linh
của bạn: bạn sẽ không nhớ tới Pháp, bạn sẽ
không tuân theo Pháp mặc dù bạn có thể nhớ
tới nó, và bạn sẽ không tuân theo Pháp hết
lòng dù bạn có thể tuân thủ nó ở một mức độ
nào đó. Nếu bạn không thiền định về cái chết
thì bạn sẽ chẳng bao giờ thực hành một cách
nghiêm cẩn. Chịu bó tay trước sự lười biếng,
bạn sẽ thiếu cố gắng và xung lực trong việc
thực hành, và bạn sẽ bị sự kiệt sức vây
khốn. Bạn sẽ bị trói chặt vào danh vọng, của
cải và sự thành đạt. Khi suy nghĩ quá nhiều
về cuộc đời này, ta có khuynh hướng làm việc
cho những gì mình yêu quý – những thân quyến
và bằng hữu của chúng ta – và ta nỗ lực để
làm vui lòng họ. Rồi khi có ai làm điều tổn
hại cho họ, lập tức chúng ta liệt những
người này là kẻ thù của mình.
Trong cách này các mê lầm như sự ham muốn và
oán ghét tăng tiến như một dòng sông ngập
lụt vào mùa hè. Một cách tự nhiên, những lầm
lạc này khiến cho chúng ta mê đắm trong mọi
thứ hành động tiêu cực mà hậu quả của chúng
sẽ là sự tái sinh trong những hình thức thấp
của sự sinh tử trong tương lai. Nhờ sự tích
tập công đức nhỏ bé, chúng ta đã có được một
đời người quý báu. Bất kỳ công đức nào đang
tồn tại cũng sẽ biểu lộ như một vài mức độ
thành đạt tương đối trong đời này.
Như vậy vốn liếng ít ỏi mà chúng ta có sẽ bị tiêu đi
mất, và nếu ta không tích tập công đức nào mới thì
giống như ta tiêu hết tiền để dành mà không có tiền
mới gửi vào. Nếu chúng ta chỉ làm cạn kiệt sự tích
lũy công đức của mình thì sớm muộn gì chúng ta sẽ bị
đắm chìm vào một đời sau còn đau khổ ghê gớm hơn
nữa.
Người ta nói rằng nếu không có một sự tỉnh giác đúng
đắn về cái chết thì chúng ta sẽ chết trong sự áp chế
của sợ hãi và hối tiếc. Mối xúc cảm đó có thể đưa
chúng ta đi vào các cõi thấp. Nhiều người tránh đề
cập tới cái chết. Họ tránh né nghĩ tới điều tồi tệ
nhất, vì vậy khi nó thực sự xảy tới họ bị bất ngờ và
hoàn toàn không sẵn sàng. Sự thực hành Phật giáo
khuyên chúng ta đừng nên không biết tới các bất hạnh
và phải hiểu biết và đối mặt với chúng, chuẩn bị cho
chúng ngay từ lúc bắt đầu. Nhờ đó, khi chúng ta thực
sự kinh nghiệm nỗi đau khổ thì nó không phải là cái
gì hoàn toàn không chịu đựng được.
Chỉ né tránh một vấn đề sẽ không giúp giải quyết nó
mà thực ra có thể làm vấn đề tệ hại hơn. Một số
người nhận xét rằng thực hành Phật giáo dường như
nhấn mạnh tới sự đau khổ và tính chất bi quan. Tôi
cho rằng điều này thật sai lầm. Thực hành Phật giáo
thực sự cố gắng để chúng ta có được một sự an lạc
vĩnh cửu – là điều không thể suy lường nổi đối với
một tâm trí bình thường
–
và tiệt trừ những đau khổ một lần cho mãi mãi. Các
Phật tử không hài lòng với sự thành đạt chỉ duy
trong đời này hay triển vọng của sự thành đạt trong
những đời sau, mà thay vào đó, họ tìm kiếm một hạnh
phúc tối hậu. Vì đau khổ là một thực tại do đó quan
điểm căn bản của Phật giáo cho rằng sẽ không giải
quyết được vấn đề nếu ta chỉ tránh né nó qua quýt.
Điều nên làm là đối mặt với đau khổ, nhìn vào nó và
phân tích, khảo sát nó, xác định các nguyên nhân của
nó và tìm ra phương cách tốt nhất để có thể đối phó
với nó. Những người né tránh nghĩ tới điều bất hạnh
thực ra lại bị nó tấn công, họ không được chuẩn bị
và sẽ đau khổ hơn những người bản thân họ đã làm
quen với những đau khổ, nguồn gốc của chúng và cách
chúng phát khởi.
–
Một hành giả của Pháp nghĩ tưởng mỗi ngày về cái
chết, quán chiếu về những nỗi khổ của con người, nỗi
khổ của lúc sinh ra, nỗi khổ của sự già đi, nỗi khổ
của bệnh tật, và nỗi khổ của sự chết. Mỗi ngày, các
hành giả Mật thừa trải nghiệm quá trình sự chết
trong sự quán tưởng. Điều ấy giống như trải qua cái
chết về mặt tâm thức mỗi ngày một lần. Vì quen thuộc
với nó, họ hoàn toàn sẵn sàng khi thực sự gặp gỡ cái
chết. Nếu bạn phải đi qua một vùng rất nguy hiểm và
ghê sợ, bạn nên tìm hiểu về những sự nguy hiểm và
cách xử sự với chúng trước đó. Không tiên liệu về
chúng là ngu dại. Dù có thích hay không bạn cũng
phải đi tới đó, vì thế tốt nhất là chuẩn bị sẵn sàng
để biết cách xử sự khi những khó khăn xuất hiện. Nếu
bạn có một sự tỉnh thức hoàn hảo về sự chết thì bạn
sẽ cảm thấy chắc chắn rằng bạn sắp chết một ngày gần
đây. Như vậy nếu khám phá ra rằng mình sắp chết
trong ngày hôm nay hay ngày mai, nhờ sự thực hành
tâm linh, bạn sẽ nỗ lực tự tháo gỡ mình ra khỏi các
đối tượng trói buộc bằng cách vất bỏ những thứ sở
hữu và coi mọi sự thành công thế tục như không có
bất kỳ bản chất hay ý nghĩa nào.
Lợi lạc của sự tỉnh thức về cái chết là nó làm cho
cuộc đời có ý nghĩa và nhờ cảm thấy hoan hỉ khi giờ
chết tới gần, bạn sẽ chết không chút hối tiếc. Khi
bạn quán chiếu về sự chắc chắn của cái chết nói
chung và sự bất định của giờ chết, bạn sẽ làm mọi nỗ
lực để tự chuẩn bị cho tương lai. Bạn sẽ nhận ra
rằng sự thành đạt và những hoạt động của đời này
không có bản chất và không quan trọng. Như vậy, sự
làm việc cho lợi lạc lâu dài của bản thân bạn và
những người khác sẽ có vẻ quan trọng nhiều hơn nữa,
và cuộc đời bạn sẽ được dẫn dắt bởi nhận thức đó.
Như Đức Milarepa đã nói, bởi chẳng sớm thì muộn bạn
phải bỏ lại mọi sự sau lưng, thì tại sao không từ bỏ
nó ngay bây giờ ?
Mặc dù mọi nỗ lực của chúng ta, kể cả việc dùng
thuốc men hay việc cử hành những lễ trường thọ,
không ai có thể hứa hẹn sẽ sống quá một trăm năm. Có
một vài trường hợp ngoại lệ, nhưng sau sáu mươi hay
bảy mươi năm nữa, hầu hết những người đọc quyển sách
này sẽ không còn sống. Sau một trăm năm, người ta sẽ
nghĩ về thời đại chúng ta chỉ như một phần của lịch
sử. Khi cái chết đến, điều duy nhất có thể giúp ích
là lòng bi mẫn và sự thấu suốt về bản tánh của thực
tại mà người ta đã đạt tới. Về lãnh vực này, khảo
sát xem có một đời sống sau khi chết hay không là
điều hết sức quan trọng.
Những đời quá khứ và tương lai hiện hữu vì những lý
lẽ sau đây. Những kiểu suy nghĩ nào đó từ năm ngoái,
từ năm trước nữa, và ngay cả từ thời thơ ấu có thể
được nhớ lại vào lúc này. Điều này chỉ rõ cho ta
thấy là một cái biết đã hiện hữu trước cái biết hiện
tại. Khoảnh khắc ý thức đầu tiên trong đời này không
được sinh khởi mà không có một nguyên nhân, cũng
không được sinh ra từ cái gì thường hằng hay vô tri.
Một khoảnh khắc của tâm là cái gì trong sáng và thấu
biết. Bởi thế cái có trước nó phải là cái gì đó
trong sáng và thấu biết, là khoảnh khắc trước của
tâm (tiền niệm). Chỉ có thể tin được rằng khoảnh
khắc đầu tiên của tâm trong đời này đến từ không cái
gì khác hơn là một đời trước.
Mặc dù thân xác vật lý có thể hành xử như một nguyên
nhân thứ yếu của những biến đổi vi tế trong tâm,
nhưng nó không thể là nguyên nhân chính yếu. Vật
chất không bao giờ chuyển hóa thành tâm thức, và tâm
thức không thể chuyển hóa thành vật chất. Vì thế,
tâm thức phải đến từ tâm thức. Tâm thức của cuộc đời
hiện tại này đến từ tâm thức của đời trước và là
nguyên nhân của tâm thức trong đời sau. Khi bạn quán
chiếu về sự chết và thường xuyên tỉnh thức về nó,
đời bạn sẽ trở nên có ý nghĩa. Nhận ra những bất lợi
to lớn của việc bám chấp có tính cách bản năng của
chúng ta vào sự thường hằng, ta phải chống trả lại
nó và tỉnh thức miên mật trước cái chết để ta sẽ
được thúc đẩy thực hành Pháp nghiêm cẩn hơn nữa.
Ngài Tsong-kha-pa nói rằng tầm quan trọng của sự
tỉnh thức về cái chết không chỉ hạn chế ở giai đoạn
bắt đầu.
Nó quan trọng suốt mọi giai đoạn của con đường; nó
quan trọng ở lúc bắt đầu, ở giai đoạn giữa và cả ở
giai đoạn cuối. Sự tỉnh thức về cái chết mà chúng ta
phải nuôi dưỡng không phải là nỗi sợ hãi thông
thường, bất lực về việc phải chia ly với những người
thân và tài sản của chúng ta. Đúng đắn hơn, chúng ta
phải học sợ hãi rằng ta sẽ chết mà chưa chấm dứt
được các nguyên nhân của sự tái sinh trong các cõi
thấp của luân hồi và sẽ chết mà không tích tập những
nguyên nhân và điều kiện cần thiết cho sự tái sinh
thuận lợi trong tương lai. Nếu chúng ta chưa hoàn
thành được hai mục đích này, thì vào lúc chết, chúng
ta sẽ bị áp chế bởi nỗi sợ hãi và ân hận ghê gớm.
Nếu chúng ta tiêu phí toàn bộ đời mình để miệt mài
trong những hành động xấu xa phát sinh từ sự oán
ghét và ham muốn, thì chúng ta gây nên tai họa không
chỉ nhất thời mà còn dài lâu. Đó là bởi ta tích lũy
và tàng trữ một khối lượng khổng lồ những nguyên
nhân và điều kiện (duyên) cho sự đọa lạc của chính
chúng ta trong những đời sau. Nỗi sợ hãi về điều đó
sẽ kích động chúng ta để biến mỗi ngày trong cuộc
đời mình thành cái gì có ý nghĩa. Khi đã có sự thức
tỉnh về cái chết, chúng ta sẽ thấy được sự thành
công và mọi sự của cuộc đời này thì không quan
trọng, và sẽ làm việc cho một tương lai tốt đẹp hơn.
Đó là mục đích của sự thiền định về cái chết. Giờ
đây, nếu chúng ta sợ hãi cái chết, chúng ta sẽ nỗ
lực tìm kiếm một phương pháp chiến thắng nỗi sợ hãi
và hối tiếc của mình khi chết.
Còn ngay bây giờ, nếu ta cứ tránh né nỗi sợ chết thì
khi chết, chúng ta sẽ bị trói chặt bởi nỗi ân hận.
Ngài Tsong-kha-pa nói rằng khi sự tham thiền của
chúng ta về lẽ vô thường trở nên hết sức vững chắc
và kiên cố thì mọi sự chúng ta gặp gỡ đều sẽ dạy
chúng ta về sự vô thường. Ngài nói rằng tiến trình
đi đến cái chết bắt đầu ngay từ khi thụ thai, và khi
còn sống, cuộc đời chúng ta thường xuyên bị hành hạ
bởi bệnh tật và sự già yếu. Khi còn khoẻ mạnh và
tràn đầy sức sống, chúng ta không nên bị lừa phỉnh
khi nghĩ rằng mình sẽ không chết.
Chúng ta không nên vui thú trong sự quên lãng khi
chúng ta còn khoẻ; cách tốt nhất là chuẩn bị cho số
phận tương lai của ta. Ví dụ như người đang rơi từ
một dốc đá thật cao sẽ không sung sướng gì trước khi
họ chạm đất. Ngay cả khi chúng ta còn sống, có rất
ít thời gian cho sự thực hành Pháp. Dù cho chúng ta
quả quyết là mình có thể trường thọ, có lẽ một trăm
năm, nhưng ta đừng bao giờ nhượng bộ cái cảm tưởng
là ta sẽ có thời gian để thực hành Pháp sau này.
Chúng ta không nên bị chi phối bởi sự lần lữa, nó là
một hình thức của tính lười biếng.
Một nửa đời người bị tiêu mất trong việc ngủ, và
phần lớn thời gian còn lại chúng ta bị phóng tâm bởi
những hoạt động thế gian. Khi ta già đi, sức mạnh
thể chất và tinh thần giảm sút, và mặc dù chúng ta
có thể mong muốn thực hành, nhưng đã quá muộn bởi
chúng ta sẽ không có năng lực để thực hành Pháp.
Đúng như một bản Kinh nói, nửa đời người tiêu phí
trong giấc ngủ, mất mười năm khi ta còn nhỏ và hai
mươi năm khi ta già, và thời gian ở khoảng giữa thì
bị dày vò bởi những lo lắng, buồn phiền, đau khổ và
thất vọng, vì thế khó có thời gian nào để cho sự
thực hành Pháp. Nếu ta sống một cuộc đời sáu mươi
năm và suy nghĩ về tất cả thời gian ta trải qua khi
còn bé, tất cả thời gian dùng để ngủ, và thời gian
khi ta quá già, thì ta sẽ nhận ra rằng chỉ còn
khoảng năm năm để ta có thể hiến mình cho sự thực
hành nghiêm cẩn Phật Pháp.
Nếu chúng ta không dùng một nỗ lực cẩn trọng để thực
hành Giáo Pháp, mà cứ sống như ta sống đời thường,
thì chắc chắn là ta tiêu phí đời mình trong sự lười
nhác không mục đích. Gung-thang Rinpoche nói, có
phần diễu cợt: “Tôi mất hai mươi năm không nghĩ gì
về việc thực hành Pháp, và sau đó mất hai mươi năm
nữa để nghĩ về việc sẽ thực hành sau này, và rồi mất
mười năm nghĩ về việc đã bỏ lỡ cơ may thực hành Pháp
như thế nào.” Khi tôi còn là một đứa trẻ, không có
gì đáng nói. Vào khoảng mười bốn hay mười lăm tuổi,
tôi bắt đầu quan tâm một cách đứng đắn về Pháp. Rồi
người Trung Hoa đến, và tôi mất nhiều năm trong mọi
thứ rối loạn chính trị.
Tôi đi Trung Hoa và viếng Thăm Ấn Độ năm 1956. Sau
đó tôi trở về Tây Tạng và lại mất thêm một ít thời
gian trong chính sự. Điều tốt nhất tôi có thể nhớ
lại là cuộc thi tôi lấy bằng Geshe (học vị hàn lâm
cao nhất trong các trường Đại học tu viện Tây Tạng),
sau đó tôi phải rời bỏ quê hương mình. Giờ đây, tôi
đã sống lưu vong hơn ba mươi năm, và mặc dù có được
một ít học tập và thực hành, phần lớn đời tôi đã bị
lãng phí một cách lười biếng không lợi lạc gì nhiều.
Tuy nhiên tôi không đến nỗi phải hối tiếc rằng mình
đã không thực hành.
Nếu tôi nghĩ về phương diện thực hành Tantra Du Già
Tối thượng thì có những khía cạnh nào đó của con
đường tôi không thể thực hành vì những cơ cấu thân
thể của tôi bắt đầu suy thoái cùng tuổi tác. Thời
gian để thực hành Pháp không đến một cách tự nhiên
mà phải được sắp xếp có chủ đích. Nếu bạn phải khởi
hành trên một hành trình lâu dài thì ở một lúc nào
đó, cần phải làm những sự chuẩn bị. Như tôi thường
thích nói, chúng ta nên dùng năm mươi phần trăm thời
gian và năng lực cho những mối quan tâm về đời sau
của mình, và khoảng năm mươi phần trăm cho những
công việc của đời này.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến cái chết và rất ít
nguyên nhân để sống còn. Hơn nữa, những gì chúng ta
thường coi là để củng cố đời sống, như thực phẩm và
thuốc men, có thể trở thành những nguyên nhân của
cái chết. Ngày nay, nhiều bệnh tật được cho là do
bởi chế độ ăn uống của chúng ta. Những hóa chất
thường giúp tăng trưởng mùa màng và chăn nuôi súc
vật đã góp phần làm sức khỏe suy yếu đi và gây nên
sự mất quân bình trong thân thể. Thân người quá nhạy
cảm, quá tinh tế khiến nếu nó quá mập thì bạn có mọi
thứ vấn đề: bạn không thể đi đứng ngay ngắn, bị cao
huyết áp, và thể bạn trở thành một gánh nặng.
Trái lại, nếu bạn quá gầy ốm, bạn ít mạnh khỏe hay
khả năng chịu đựng, nó dẫn tới mọi thứ phiền não
khác. Khi bạn còn trẻ, bạn lo lắng không được kể đến
trong số những người lớn, và khi quá già thì bạn có
cảm tưởng như bị xua đuổi ra khỏi xã hội. Đây là bản
chất sự hiện hữu của chúng ta. Nếu mối họa hại là
một thứ gì tác động từ bên ngoài, thì bạn có thể
bằng cách này hay cách khác né tránh nó; bạn có thể
chui xuống lòng đất hay lặn sâu trong đại dương.
Nhưng khi hiểm họa đến từ bên trong thì bạn không
thể làm gì hết. Trong khi chúng ta còn tự do đối với
sự bệnh hoạn và khó khăn, và ta có một thân thể khỏe
mạnh, chúng ta phải lợi dụng điều đó và rút ra được
cốt tủy của nó. Rút ra được cốt tủy (bản chất) của
cuộc sống là nỗ lực để thành tựu một trạng thái hoàn
toàn giải thoát khỏi bệnh tật, cái chết, sự suy sụp
và nỗi sợ – đó là, một trạng thái của giải thoát và
toàn trí.
Người giàu có nhất trong thế giới không thể mang
theo một vật sở hữu duy nhất khi chết. Ngài
Tsong-kha-pa nói rằng nếu chúng ta phải để lại đằng
sau thân xác này, là thứ mà ta rất thân thiết, coi
như của riêng mình và là cái từng đồng hành với ta
từ lúc sinh ra như người bạn già nua nhất, thì làm
gì có chuyện không phải bỏ lại những của cải vật
chất. Hầu hết mọi người đều mất quá nhiều năng lực
và thời gian chỉ để cố gắng có được một ít thành đạt
và hạnh phúc trong đời này. Nhưng vào lúc chết, mọi
hoạt động thế tục của ta, như sự chăm sóc những
người thân và bằng hữu, và sự đua tranh với những
đối thủ, đành phải bỏ lại dang dở.
Mặc dù bạn có thể có đủ thực phẩm để dùng trong một
trăm năm, lúc chết bạn sẽ phải chịu đói, và mặc dù
bạn có thể có quần áo đủ mặc trong một trăm năm,
nhưng khi chết bạn sẽ phải trần truồng. Khi cái chết
tấn công, không có sự khác biệt giữa cách chết của
một vị vua, bỏ lại đằng sau vương quốc của mình, và
cách chết của một người ăn mày, bỏ lại cây gậy. Bạn
nên cố gắng tưởng tượng một tình huống trong đó bạn
bị bệnh. Hãy tưởng tượng là bạn bị trọng bệnh và
toàn thể sức khỏe thể xác đã ra đi; bạn cảm thấy
kiệt sức, và ngay cả thuốc men cũng không giúp được
gì. Đến lúc hấp hối bác sĩ sẽ nói bằng hai cách: với
người bệnh thì ông nói: “Đừng lo lắng, bạn sẽ khá
hơn.
Không có gì phải lo âu; chỉ cần tĩnh dưỡng.” Với gia
đình thì ông nói: “Tình huống rất trầm trọng. Quý vị
nên sắp xếp để cử hành những nghi lễ cuối cùng.” Vào
thời điểm đó bạn sẽ không có cơ hội nào để hoàn tất
công việc dở dang hay để hoàn thiện việc nghiên cứu
của bạn. Khi nằm đó, thân thể bạn sẽ quá yếu khiến
bạn cử động khó khăn. Rồi hơi nóng của thân từ từ
phân tán và bạn cảm thấy thân mình trở nên cứng đơ,
như một khúc cây rơi trên giường bạn. Bạn sẽ thực sự
bắt đầu nhìn thấy tử thi của chính mình.
Những lời sau cùng của bạn nghe thều thào và những
người ở xung quanh phải ráng sức mới hiểu bạn nói
gì. Thực phẩm cuối cùng bạn ăn không phải là một bữa
ăn ngon lành mà là một nắm thuốc mà bạn sẽ không còn
sức để nuốt trôi. Bạn sẽ phải rời bỏ những bằng hữu
thân thiết nhất, dường như phải mất nhiều kiếp bạn
mới gặp lại họ. Cách thở của bạn biến đổi và trở nên
ồn hơn. Từ từ nó sẽ trở nên bất thường, hơi thở vào
hơi thở ra nhanh hơn, nhanh hơn nữa. Cuối cùng, sẽ
có một hơi thở ra rất mạnh sau cùng, và đây sẽ là sự
chấm dứt việc hô hấp của bạn. Điều đó đánh dấu sự
chết như thường được hiểu như vậy. Sau đó thì tên
của bạn, cái tên mà đã một thời đem lại niềm vui cho
bằng hữu và gia đình bạn khi họ nghe tới nó, sẽ được
thêm vào một từ “cố” ở trước nó.
Điều trọng yếu là vào lúc hấp hối, tâm phải ở trong
một trạng thái tốt lành. Nó là cơ may cuối cùng mà
chúng ta có, và là một dịp may không nên bị bỏ qua.
Mặc dù chúng ta có thể sống một cuộc đời rất xấu xa,
nhưng vào lúc hấp hối ta nên làm một nỗ lực vĩ đại
để nuôi dưỡng một trạng thái đức hạnh (an bình)
trong tâm. Nếu chúng ta có thể phát triển một lòng
bi mẫn hết sức mạnh mẽ và tràn đầy năng lực vào lúc
chết, thì có hy vọng rằng ở đời sau chúng ta sẽ tái
sinh trong một đời sống thuận lợi. Nói chung, sự
quen thuộc đóng một vai trò quan trọng trong việc
này. Khi bệnh nhân sắp chết thì việc để cho người
hấp hối cảm thấy ham muốn hay oán giận là điều bất
hạnh.
Ít nhất, nên cho người bệnh ngắm nhìn hình ảnh các
vị Phật và Bồ Tát khiến họ có thể nhận ra các Ngài,
cố gắng phát triển đức tin mạnh mẽ nơi các Ngài, và
chết trong một tâm trạng tốt lành. Nếu điều này
không thể làm được thì điều tối quan trọng là những
người chăm sóc và thân quyến đừng làm người sắp chết
bối rối. Vào lúc ấy, một cảm xúc rất mãnh liệt như
sự ham muốn hay oán giận có thể đưa người hấp hối
tới một trạng thái đau khổ ghê gớm và hoàn toàn có
khả năng đi vào một sự tái sinh ở cõi thấp. Khi cái
chết đến gần, những dấu hiệu nào đó điềm chỉ tương
lai có thể xuất hiện.
Những người có tâm thức tốt lành sẽ thấy là mình
đang đi từ chốn tối tăm ra ánh sáng hay đi vào nơi
quang đãng. Họ sẽ cảm thấy sung sướng, nhìn thấy
những điều đẹp đẽ, và sẽ không cảm thấy bất kỳ nỗi
đau khổ sâu sắc nào khi họ chết. Nếu lúc hấp hối
người ta có những cảm xúc hết sức mãnh liệt về sự
ham muốn hay oán ghét thì họ sẽ thấy mọi thứ ảo giác
và sẽ cảm thấy đau buồn ghê gớm.
Một số người thấy như thể họ đang đi vào bóng tối,
những người khác cảm thấy mình đang bị thiêu đốt.
Tôi từng gặp vài người đang bệnh rất nặng, họ kể lại
rằng khi đau nặng, họ thấy mình đang bị thiêu đốt.
Đây là một biểu thị cho số phận trong tương lai của
họ. Do những dấu hiệu như thế, người hấp hối sẽ cảm
thấy hết sức bối rối, và sẽ kêu la, rên rỉ, thấy như
thể toàn thân đang bị lôi kéo xuống.
Họ sẽ đau khổ sâu sắc lúc hấp hối. Một cách rốt ráo,
những sự kiện này phát xuất từ sự bám chấp vào bản
ngã. Người hấp hối biết rằng kẻ mà mọi người rất yêu
mến đó sắp chết. Khi những người đã miệt mài phần
lớn đời mình trong ác hạnh ấy chết, ta được biết là
tiến trình tan hoại hơi ấm của thân thể bắt đầu từ
phần thân trên đi xuống trái tim. Đối với những hành
giả thiện hạnh thì tiến trình tan biến hơi nóng bắt
đầu từ phía dưới, từ bàn chân, và cuối cùng lên tới
trái tim. Trong bất kỳ trường hợp nào, tâm thức cũng
thực sự khởi hành từ trái tim. Sau khi chết, người
ta đi vào trạng thái trung ấm, bardo. Thân thể trong
trạng thái trung ấm có vài đặc điểm riêng biệt:
tất cả các giác quan đều đầy đủ, và nó có một hình
tướng thể chất giống hệt với hình tướng của hiện thể
mà nó sẽ tái sinh. Ví dụ, nếu nó tái sinh làm một
con người, nó sẽ có một hình tướng thể chất giống
hệt một con người. Nếu nó tái sinh là một súc sinh
thì nó sẽ có hình tướng thể chất của súc sinh đặc
thù. Thân trung ấm có thị lực mạnh mẽ đến độ có thể
nhìn xuyên qua các vật rắn và có khả năng du hành
bất kỳ nơi nào mà không bị ngăn ngại. Thân trung ấm
chỉ có thể nhìn thấy những thân trung ấm cùng loại.
Ví dụ, nếu một thân trung ấm được định là tái sinh
làm một con người thì nó chỉ nhìn thấy những thân
trung ấm đã được định để tái sinh làm người. Những
thân trung ấm của cõi trời đi hướng lên, nhìn hướng
lên cao, và các thân trung ấm của cõi người đi thẳng
và nhìn thẳng.
Các thân trung ấm của những kẻ đã say đắm trong các
ác hành và bị tái sinh vào các cõi thấp thì ta được
biết là di chuyển hướng xuống dưới. Thời kỳ ở trạng
thái trung ấm này là bảy ngày. Sau một tuần lễ, nếu
thân trung ấm gặp được những tình cảnh thích hợp thì
nó sẽ tái sinh trong cảnh giới luân hồi tương ứng.
Nếu nó không gặp được thì sẽ lại chết một cái chết
nhỏ và xuất hiện một lần nữa như một thân trung ấm.
Điều này có thể xuất hiện bảy lần, nhưng sau bốn
mươi chín ngày thì nó không thể tồn tại như một hiện
thể của trạng thái trung ấm nữa và phải tái sinh dù
nó có muốn hay không. Khi đến thời điểm để tái sinh,
thân trung ấm nhìn những hiện thể cùng loại với nó
bay lượn, và nó sẽ phát triển một ước muốn nhập bọn
với họ.
Những chất sinh nở của các cha mẹ tương lai, tinh
dịch và trứng, trông khác biệt với nó. Mặc dù cha mẹ
có thể không thực sự ngủ với nhau, thân trung ấm sẽ
có ảo giác là họ đang làm việc đó và sẽ cảm thấy
dính mắc với họ. Nếu thân trung ấm nào có thể sinh
làm một bé gái, nó sẽ cảm thấy ghét bỏ người mẹ và
bị cuốn hút bởi sự trói buộc, nó sẽ nỗ lực để ngủ
với người cha.
Nếu thân trung ấm có thể sinh ra làm một bé trai, nó
sẽ thấy ganh ghét người cha mà ràng buộc với người
mẹ và cố gắng để ngủ với mẹ. Bị kích động bởi lòng
ham muốn như thế, nó đi theo cha mẹ bất kỳ nơi nào.
Sau đó, không có phần thân thể nào của cha mẹ xuất
hiện ra trước thân trung ấm đó trừ những bộ phận
sinh dục, do đó nó cảm thấy thất vọng và giận dữ.
Sự giận dữ đó là điều kiện (duyên) cho cái chết của
nó từ trạng thái trung ấm, và nó tái sinh trong tử
cung. Khi cha mẹ đang giao hợp và đạt tới khoái cảm
cực độ, một hay hai giọt tinh dịch đậm đặc và trứng
hòa trộn với nhau như kem trên lớp mặt sữa đun sôi.
Vào lúc này, tâm thức của thân trung ấm ngừng dứt và
đi vào hỗn hợp ấy.
Điều đó đánh dấu sự nhập thai. Mặc dù cha mẹ có thể
không giao hợp, thân trung ấm có ảo tưởng là họ đang
làm việc ấy và sẽ đi tới nơi đó. Điều này hàm ý rằng
có những trường hợp, mặc dù cha mẹ có thể không giao
hợp, tuy nhiên tâm thức vẫn có thể đi vào những yếu
tố vật lý. Điều này giải thích cho việc những đứa
trẻ sinh ra từ ống nghiệm ngày nay; khi các tinh
chất được tập hợp lại từ cha mẹ, được hòa trộn và
giữ gìn trong một ống nghiệm thì tâm thức có thể đi
vào hợp chất đó mà không cần sự giao hợp thực sự xảy
ra.
Ngài Shantideva nói rằng ngay cả các súc vật cũng
hoạt động để cảm nghiệm niềm vui thích và tránh né
đau khổ trong đời này. Chúng ta phải hướng sự chú
tâm của ta về tương lai; nếu không, ta sẽ không khác
gì những thú vật. Sự tỉnh thức về cái chết chính là
nền tảng của toàn thể con đường. Trừ phi bạn phát
triển sự tỉnh thức này, còn không thì tất cả những
thực hành khác sẽ bị chướng ngại. Pháp là người
hướng đạo dẫn dắt ta đi qua những địa hạt không được
biết tới; Pháp là thực phẩm nuôi dưỡng ta trong cuộc
hành trình;
Pháp là vị thuyền trưởng sẽ đưa chúng ta tới bến bờ
xa lạ của Niết bàn. Vì thế, hãy đem tất cả năng lực
của thân, ngữ và tâm bạn vào việc thực hành Pháp.
Nói về sự thiền định về cái chết và lẽ vô thường thì
rất dễ, nhưng thực hành thật sự thì quả là hết sức
khó khăn. Và khi chúng ta thực hành, đôi lúc ta
không nhận thấy có sự thay đổi nhiều, đặc biệt nếu
ta chỉ so sánh hôm qua và hôm nay.
Đó là một mối nguy hiểm dễ làm ta mất hy vọng và trở
nên thiếu can đảm. Trong những tình huống như thế,
rất lợi lạc khi ta không so sánh từng ngày hay hàng
tuần, mà đúng hơn, cố gắng so sánh tâm trạng hiện
thời của ta với tâm trạng của năm năm hay mười năm
trước; như vậy ta sẽ thấy rằng đã có một vài thay
đổi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét