Đôi nét về Tam Minh trong đêm Thành đạo
Tác giả: Huệ Tịch
1.Khái niệm:
Tam Minh, tức ba Trí Minh. Ở chư Phật gọi là Tam Đạt, còn ở A La Hán thì gọi là Tam Minh. Lại gọi là Trí Chứng Minah, gồm có:
Túc Mạng Minh: còn gọi là Túc Mạng Trí Minh, tức là trí tuệ rõ biết tướng sanh tử của tự thân mình và tha thân trong đời trước.
Thiên Nhãn Minh: còn gọi là Sanh Tử Trí Minh, tức là trí tuệ rõ biết tướng sanh tử của tự thân mình và thân của người khác.
Lậu Tận Minh: còn gọi là Lậu Tận Trí Minh, tức trí tuệ rõ biết như thật, biết tướng khổ ở hiện tại, đoạn trừ mọi phiền não.
2. Tiến Trình Chứng Tam Minh:
Khi tư tưởng trở nên lắng dịu, tinh khiết, không còn tham ái và nhiễm ô, Ngài hướng tâm về tuệ giác có liên quan đến sự nhớ lại những kiếp trước, liền chứng Túc Mạng Minh _ tuệ hồi nhớ tiền kiếp. Đây chính là tuệ giác đầu tiên mà Bồ Tát Sĩ Đạt Ta chứng ngộ lúc canh một đêm thành Đạo.
Kế đến, Ngài hướng tâm đến sự tri giác hiện tượng diệt và sanh của
chúng sanh. Với tuệ nhãn siêu phàm này, Ngài nhận thấy chúng sanh chết
từ kiếp này, tái sanh vào kiếp khác, thấy được cảnh tượng kẻ sang người
hèn, kẻ xấu, người đẹp… tất cả đều do Tam nghiệp của chính chúng sanh đó
tạo ra chứ không phải sự ban ơn hay giáng họa của một đấng quyền năng
nào khác. Đây chính là tuệ giác thứ hai mà Ngài chứng được trong đêm
thành Đạo.
Và cuối cùng, Ngài hướng tâm đến tuệ hiểu biết sự chấm dứt các pháp trầm luân[1].
Tùy theo trường hợp mà Ngài nhận định đâu là phiền não, đâu là chấm dứt
phiền não, và đâu là con đường dẫn đến sự chấm dứt phiền não ấy. Nhận
thức như thế, tâm Ngài giải thoát hoàn toàn ra khỏi Dục lậu, Hữu lậu và
Vô Minh lậu.
Vâng, đây chính là tuệ giác thứ ba trong đêm thành Đạo của Ngài.
3.Tam Minh Trong Kinh A Hàm:
Trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng kinh có nói về tiến trình Chứng Tam Minh của Bồ Tát Sĩ Đạt Ta như sau:
“Lúc
bấy giờ Bồ Tát vận dụng Từ tâm, vào ngày mùng 7 tháng 12, khi đêm
xuống, hàng phục các ma rồi, phóng đại quanh mình, Ngài liền nhập định
tư duy chân đế. Trong các pháp thiền định tự tại, Ngài biết rõ các pháp
đã tạo trong quá khứ, từ pháp này sanh ra pháp khác, phụ mẫu quyến
thuộc, bần phú quý tiện, thọ mạng dài ngắn, danh tánh văn tự… tất cả đều
biết rõ ràng. Ngài liền đối với chúng sanh khởi đại từ tâm mà nghĩ
rằng: Tất cả chúng sanh không có người cứu độ, luân hồi trong ngũ thú
không biết đâu là bờ bến xuất ly, hết thảy đều hư nguỵ, không có gì chân
thật, rồi ở trong đó hoàn toàn sanh khổ lạc. Ngài tư duy đến tận giữa
đêm[2]”.
Tuy nhiên trong kinh Thủy Ứng Bản Khởi thì lại ghi khác:
“Đầu đêm hôm ấy đắc Nhất Thuật Xà, tự biết túc mạng từ vô số kiếp đến nay xoay dần thọ thân không thể đếm hết. Đến canh hai, đắc Nhị Thuật Xà biết rõ hết mọi ý niệm trong tâm chúng sanh, pháp thiện, pháp ác, tai ương phước báu, sanh từ đâu, chêt đi về đâu… Đến cuối đêm, đắc Tam Thuật Xà, các lậu đã tận, trói mở tự biết, sạch hết các tập khí đã tạo từ xa xưa”.
Có thể do mỗi kinh ghi vào mỗi thời điểm khác nhau, Thánh ký khác nhau nên cách dùng từ có khác[3],
thời điểm chứng đắc cũng khác, nhưng nhìn chung, tất cả đều nói lên
trong đêm thứ 49 ấy Bồ Tát Sĩ Đạt Ta đã chứng được Tam Minh, đánh dấu
bước đột phá vĩ đại, từ một Thái tử bằng xương bằng thịt như bao con
người khác, thế mà giờ đây đã trở thành bậc Chánh Đẳng, Chánh Giác.
4. Luận Về Tam Minh:
a. Túc Mạng Minh: còn gọi là Túc Trụ tùy niệm trí chứng minh,
Minh là sự thấy biết, bừng sáng như ánh mặt trời. Với ánh sáng trí tuệ
ấy, không có một bóng đêm vô minh nào mà không bị xua tan. Vậy, Ngài đã
biết thấy gì trong những lần bừng sáng này?
Ngài đã “biết
rõ mọi viêc trong quá khứ, từ một đời đến nhiều đời, số kiếp thành
hoại, tất cả túc mạng của mình và cả chúng sanh, tên tuổi là gì, đời
sống ra sao, vui khổ thế nào, sống bao lâu, ở đâu, sinh ra và chết ở cõi
nào, sinh về cõi khác…, nói chung tất cả đều biết rõ ràng. Đó gọi là
Túc Mạng Trí chứng minh”[4].
Với
Trí chứng này, Ngài biết rõ mọi chuyện quá khứ của mình. Điều này, có
thể hiểu quá khứ ở đây được xem như một thực tại sinh động chứ không
phải là sự tư duy trừu tượng. Ngài đã thấy như biết chính mình đang sống
ở trong đó, có đau khổ, có vui sướng… Bồ Tát không chiêm nghiệm đời
sống bằng thứ tư duy trừu tượng như một số người vẫn nghĩ, mà qua sự tự
tu tự chứng của mình Ngài đã thấy biết từ sự bừng sáng của tâm thức[5], của sự Giác ngộ hoàn toàn của một vị Phật sẽ thành trong một vài canh kế tiếp.
b.Thiên Nhãn Minh:Có khi gọi là Tử
sanh trí chứng minh. Tức: “biết rõ như thật các chúng sanh khi sống
chết, đẹp xấu, cao thấp, sanh vào ác thú, tùy nghiệp thọ sanh… các chúng
sanh đều là do nghiệp của thân mà thành tựu, do ác hạnh của ý thành
tựu, do hủy báng thánh nhân, tà kiến mà thọ tà pháp, thân hoại mạng
chung sanh trong địa ngục ác thú. Các hạnh thiện nơi thân, khẩu, ý của
các chúng sanh ấy không hủy báng thánh nhân, thành tựu chánh kiến, thân
hoại mạng chung sanh trong cõi lành trời người”[6]
Bồ
Tát thấy rõ nguyên nhân cũng như kết quả của tất cả những hành vi tạo
tác, dẫn đến thọ nghiệp trong vị lai Túc mạng minh thì biết về quá khứ.
Sở đắc của hai Minh này luôn có sự tương đồng, chỉ có thắng dụng là
khác. Có điều là cả hai Minh này đều không phải là Trung đạo Đệ nhất
nghĩa đế. Vậy Đệ nhất nghĩa đế của Trung đạo là gì?
Đó chính là Lậu Tận Minh: Đây mới chính là quả vị mà Sĩ Đạt Ta cần phải có, dù thịt nát xương tan. Thế nhưng phải đợi đến lúc sao Mai ló dạng mới có được!
c. Lậu Tận Minh:Cũng chính là Lậu tận trí minh, lậu tận trí. Nghĩa là:
“biết rõ như thật khổ, khổ tập, khổ diệt và con đường diệt khổ. Biết rõ
như thật tri kiến, Dục vô lậu tâm giải thoát, Hữu hữu lậu tâm giải
thoát, Vô minh lậu tâm giải thoát, giải thoát tri kiến, sự sanh đã tận,
phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm, tự tri không còn thọ thân
sau nữa. Đó là Lậu tận trí minh”[7].
Trong
lúc cảnh vật đang chìm đắm trong giấc mộng, bóng đêm như đang làm chủ
mọi sự vận hành của không gian và thời gian, bỗng nhiên sao Mai lại xuất
hiện. Sự xuất hiện của sao Mai trong đêm nay có oai lực huyền bí hơn.
Ánh sáng hảo huyền ấy lại có sức mạnh vô song, phá tung bóng đêm và đặc
biệt là màng vô minh tồn tại từ vô thỉ vô chung cũng dần tan biến[8],
âm thầm lui gót mà không lời từ giã. Những giọt sương long lanh lần
lượt trở mình, kêu gọi những chiếc lá nơi rừng già Uruvella trổi dậy để
chứng kiến một sự kiện trọng đại mà xưa nay chưa từng có. Thời gian
tưởng chừng như không còn hoạt động, không gian trở nên yên tĩnh… tất cả
đều hướng về cội Tất Bát La[9], theo dõi sự chuyển biến trong nội tâm của Sĩ Đạt Ta.
Chỉ
trong khoảnh khắc, đuốc tuệ trong Ngài bừng chiếu, ánh sáng ngập tràn
thiên địa, hoành biến thập phương chiếu sáng cả tam thiên đại thiên thế
giới. Trong giây phút đáng nhớ ấy, Đức Thế Tôn vẫy chào vĩnh biệt đôi bờ tử sinh cùng với nụ cười tuyệt vời của “Trang Giác Ngộ”[10].
5. Kết luận:
Như
vậy, tiến trình chứng Tam Minh của Bồ Tát Sĩ Đạt Ta được thống nhất như
sau: canh một, chứng Túc Mạng Minh, thấy rõ tướng trạng sanh tử, có thể
sanh tâm yểm ly sâu sắc. Canh hai, chứng Thiên Nhãn Minh và canh ba,
chứng Lậu Tận Minh, hai lần này điều có sự yểm ly trong ngoài. Thế nhưng
đến canh ba thì sự yểm ly có lẫn lộn với niềm hân hoan nhập Niết Bàn.
Nếu không có sự xuất hiện thỉnh cầu của chư Thiên, rất có thể đến hôm ấy
Đức Thế Tôn đã vào Niết Bàn. Thử hỏi điều đó xảy ra, liệu Tam Minh có
còn ý nghĩa gì nữa chăng? Thể dụng thù thắng ấy, sử sách có kịp thời
ghi lại không, nhân loại ngày nay có ai biết đến Đạo Phật là gì không,
và điều muốn nói ở đây là lúc ấy thiên hạ sẽ hỏi gì về việc tu học thành
bại của Thái Tử Sĩ Đạt Ta?
Đúng
vậy! Nếu đêm hôm đó, Ngài vào Niết Bàn, điều đó quả là một mất mát lớn
cho nhân loại nói riêng, cho chúng sanh nói chung. Và chưa chắc gì đến
ngày nay, con người có thể tìm đâu ra một Tôn giáo có đầy đủ Từ bi và
Trí tuệ như đạo Phật không tìm ra chân lý thoát khổ, rồi đây sự chìm đắm
trong ngũ dục mà lâu nay con người bị cuốn trôi lại diễn ra êm ả như
dòng chảy của thời gian, chúng sanh không tìm được nơi nương tựa - khổ
cả rùa mù tìm bọng cây nơi Đại dương không bờ mé[11].
Thế
nhưng có thể nói sự thỉnh cầu của Chư Thiên được xem như phần Duyên
Khởi cho lộ trình hoằng hóa lợi sanh của Ngài sau này mà thôi. Ngài
quyết định không vào Niết Bàn, cốt lõi vẫn là lòng từ bi rộng lớn, sự hy
sinh cao cả… của Đấng cha lành.
Với
đuốc tuệ rộng chiếu, ý chí dũng mãnh, Ngài không chỉ là tấm gương soi
sáng cho riêng hàng Phật tử mà còn cho tất cả mọi người, bất luận là tôn
giáo nào, giai cấp nào. Vì thế mà giáo pháp của Ngài, hình ảnh của Ngài
bao giờ cũng ngời sáng dù có trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch
sử nhân loại. Và mãi mãi vẫn là giáo pháp tuyệt vời trên mọi giáo pháp,
hình ảnh tuyệt vời trên mọi hình ảnh. Trong những giây phút tĩnh tâm nào
đó, chiêm nghiệm lại những lời di huấn sau đây, nhất định ta sẽ thấy rõ
điều này:
“Mọi
vật ở đời không có gì quý giá. Thân thể rồi sẽ tan rã. Chỉ có Đạo ta là
quý báo. Chỉ có chân lý của Đạo Ta là bất di bất dịch. Hãy tinh tấn lên
để giải thoát”[12].
[1] HT. Thích Thiện Hoa,phật học phổ thông, nxb. Tôn Giáo, Hà Nội,2004, khoá I,tr53.
[1] Trầm luân, có 4 pháp: Dục, Hữu, Tà Kiến và Vô Minh. Đức Phật và Phật Pháp, Phạm Kim Khánh, dg.
[2] Đại chánh Tâm Tu Đại Tạng Kinh, tập 50, quyển hạ,tr.34.
[3] Thánh ký: chỉ cho việc ghi (kết tập) lại Kinh điển của chư vị Thánh giả.
7: Tâm thức, còn gọi là thức hoặc Tâm nghĩa la liễu biệt. Tâm phân biệt, hiểu rõ được cảnh thì gọi là
thức.
[7] Kinh Tạp A Hàm
[8] Vô minh: (Avidya) tiếng phạn gọi là A-vĩ-nễ. Chỉ cho cái tâm ám độn, không chiếu rọi được ràng sự và lý của các pháp.
[9] Tất
Bát La: còn gọi là Tì Bát La. Nay gọi là cây Bồ Đề. Bồ Tát Sĩ Đạt Ta
chứng được đạo quả Bồ Đề dưới gốc cây này nên gọi là cây Bồ Đề.
[10] Thế tôn, là một trong mười danh hiệu của mỗi Đức Phật.
[11] Điển
tích về rùa mù: 100 năm mới có một cây trôi ra biển, lại 100 năm rùa
mới nổi lên mặt biển tìm bộng cây. Việc tìm được là không thể đối với
rùa mù.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét