THẤT TÌNH LỤC DỤC LÀ GÌ ?
Bảy
thứ tình cảm biểu lộ ra bên ngoài và sáu việc ham muốn của con người
gồm chung trong câu nói ngắn gọn là "thất tình lục dục". Vậy 7 thứ tình
cảm và 6 điều ham muốn đó là những gì ?
Bảy
thứ tình cảm mà mỗi chúng ta đều có như : Vui mừng, giận dữ, buồn bã,
vui vẻ, yêu thương, ghét và ham muốn hay nói cách khác là hỉ, nộ, ai,
lạc, ái, ố và dục vậy.
Bảy
trạng thái tâm lý nầy luôn luôn tiềm ẩn ở nơi tâm thức chúng ta, hễ khi
nào gặp một cơ hội thuận tiện, tự nhiên cái tình cảm ấy sẽ hiện nguyên
ra bên ngoài như bộc lộ ra nơi nét mặt hay nơi cử chỉ, trong lời nói
v.v... Như khi vui, người ta có bộ mặt tươi tắn, lúc buồn mặt ủ dột,
lạnh nhạt. Còn giận thì mặt tái mét, xanh xao ; yêu thương mặt đỏ, nóng
bừng v.v... Một trong 7 thứ tình cảm trên thái quá cũng khiến cho tâm
sinh lý con người xáo trộn mất quân bình và gây ra những hành động thiếu
ý thức và tai hại. Để đối trị lại với thất tình, Phật giáo đưa ra
Thất-giác-chi tức là 7 điều hiểu biết đúng đắn là : Chọn lựa phương
pháp, chuyên cần, mừng vui, nhẹ nhàng, suy nghĩ, định tĩnh tâm thức và
xã bỏ những ý tưởng thấp hèn.
Còn lục dục là gì ? Lục dục là 6 điều ham muốn đã trở thành thói quen khó sửa đổi :
- Sắc dục : Ham muốn sắc đẹp.
- Dung mạo dục : Ưa thích diện mạo đẹp đẽ.
- Tư thái dục : Mong có dáng chững chạc, dịu dàng.
- Muốn đụng chạm vào thân xác giữa nam nữ.
- Say đắm lời ngọt ngào êm dịu.
- Thích người cao lớn đẫy đà, phương phi, gọn gàng.
Ngoài
ra, còn một định nghĩa khác là tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến cũng
nằm trong khía cạnh xấu của lục dục, nhưng theo thiển ý của bút giả,
định nghĩa nầy không thể chấp nhận được. Đối với người tu, không phải
dứt 7 thứ tình cảm, lìa 6 dục mà đạt được đạo, nhưng nương vào đó mà
chuyển hướng tình cảm, ý muốn bất chánh trở lại với con đường thiện, tức
là tự làm một cuộc cách mạng ngay chính bản thân.
Cá nhân tốt, xã hội sẽ được cải thiện mà Phật giáo chủ trương phải hướng thiện ngay nơi mỗi ý nghĩ, lời nói.
Trong
Phật giáo, tội ngũ nghịch là một tội nặng như ngoài đời là tội bị tử
hình vậy. Tội ngũ nghịch còn gọi là tội vô gián bị đọa vào địa ngục, vì
trái với luân thường đạo lý nên gọi là nghịch.
Năm tội cực ác ấy như là : Giết cha, giết mẹ, giết bậc A-la-hán, hủy phá thân Phật ra máu, phá hoại hòa hợp Tăng.
Căn
cứ vào kinh ngũ nghịch tội do vua A-Xà-Thế hỏi Phật, thì có năm tội
thật nặng nề mà người tu hành phải tránh để khỏi gây ra hậu quả xấu, bị
đọa vào địa ngục. Trong năm tội nghịch nầy, tội nào cũng nặng tầy trời
cả. Theo truyền thuyết cho rằng khi đức Phật Thích-Ca còn tại thế,
Đề-Bà-Đạt-Đa cố tâm hại Phật như cho lăn đá đè, cho voi dữ cán lên mình
Phật, nhưng nhờ sức thần thông, đức Phật đã thoát ra được các nạn dữ đó.
Những tội như thế được liệt vào tội thứ tư trong năm tội nghịch nầy.
Cũng trong cùng một ý nghĩa đó, việc hủy phá hình tượng Phật như bắn
phá, đâm đục đều có tội rất nặng. Cả năm tội nghịch nầy đều có chung
hình tướng cho cả ba thừa (Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-Tát), tức bao gồm
cả Đại-thừa và Tiểu-thừa.
Người não đã lỡ phạm vào một trong năm tội trên, còn cách nào cứu thoát được không ?
Những
kẻ phạm phải tội nghịch ác như thế, tâm sinh lý họ đã có sự mất quân
bình nên gây ra sự lầm lỗi quá nặng. Muốn giải cứu, phạm nhân phải tự
mình phát nguyện sám hối trước Tam-Bảo, hứa chừa bỏ những hành vi, ý
nghĩ xấu ác thô bỉ kia và quyết tâm thực hành điều thiện thì mới có thể
xóa bỏ được lỗi phạm trước, để bắt đầu làm lại mọi việc đổi mới hoàn
toàn và phải cảnh giác việc ác trong mỗi ý niệm, trong hành vi, tư tưởng
...
Người
Phật tử khi đã biết lý nhân quả và tội phước báo ứng rồi thì đừng nên
gây ra cho kẻ khác bất cứ một tội nhỏ nào, huống chi trong năm tội
nghịch ác lại cần phải tìm cách lánh xa.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét