Đức Phật dạy con như thế nào
Tiến sĩ Gil Fronsdal |
LTS:
Tiến sĩ Gil Fronsdal hiện đang giảng dạy Thiền tại Insight Meditation
Center ở Redwood City, California, Hoa Kỳ. Ông có vợ và hai con. Với
ông, Đức Phật là một bậc thầy, một con người giác ngộ. Sự kiện Đức Phật
giáo dưỡng La Hầu La trở nên giác ngộ được ghi chép trong Kinh tạng
Pàli, theo Gil Fronsdal gần gũi và thân mật như cha dạy con, thầy dạy
trò đã khơi nguồn cảm hứng cho ông hướng dẫn tu tập thiền định cho con
cái và thanh thiếu niên. Xin giới thiệu bài viết Đức Phật dạy con như
thế nào, nguyên tác The Buddha as a Parents, tạp chí Inquiring Mind xuất
bản, (Hoài Hương chuyển dịch sang tiếng Việt) đến với bạn đọc... G.N
Ngày nay, hầu như người Phật tử nào cũng biết rằng thái tử Tất Đạt Đa, sau này là Đức Phật, đã lìa bỏ tổ ấm của mình để đi tìm con đường giải thoát không lâu sau cái ngày La Hầu La, đứa con trai duy nhất của Ngài, chào đời. Nhiều người cảm thấy khó hiểu, thậm chí phẫn nộ, trước một hành động có vẻ “thiếu trách nhiệm” như thế. Song, ít ai biết rằng sau khi đạt Chánh đẳng Chánh giác, Đức Phật đã trở thành thầy dạy dỗ chính cho con trai của mình trong hầu hết quãng đời niên thiếu, kể từ khi La Hầu La lên 7 tuổi, và Ngài đã là một người cha rất mực mô phạm: La Hầu La đã đạt được giác ngộ viên mãn khi mới tròn 20 tuổi. Vậy, ta hãy tự hỏi, Đức Phật là một người cha như thế nào? Phương pháp dạy con của Ngài ra sao? Làm thế nào một bậc giác ngộ trao truyền những giá trị tâm linh của mình cho con cái?
Kinh điển không đề cập nhiều đến mối quan hệ cha-con
giữa Đức Phật và La Hầu La, nhưng rải rác vẫn có để lại những dấu hiệu
thú vị đáng lưu ý về việc Đức Phật đã dẫn dắt La Hầu La như thế nào trên
con đường trưởng thành. Mặc dầu trước các kinh điển này đã có những mẩu
chuyện nói về việc La Hầu La đã trở thành đồ đệ của Đức Phật như thế
nào, nhưng phần lớn những chi tiết này nằm trong 3 bài pháp mà nếu ta
gom cả lại với nhau, thì đó chính là một tiến trình liên tục của con
đường dẫn tới giác ngộ: lúc La Hầu La 7 tuổi, Đức Phật dạy cho con về
đạo đức; lúc La Hầu La 10 tuổi, Đức Phật dạy cho con thiền; và lúc 20
tuổi, Ngài dạy về tuệ giác giải thoát. Quá trình trưởng thành của La Hầu
La, vì vậy, đi liền với tiến trình giác ngộ.
Khi con trai của tôi tròn 7 tuổi, tôi bắt đầu suy tư về
việc làm thế nào để dẫn dắt nó và em trai của nó trên con đường tâm
linh. Ít nhất, tôi muốn các con tôi học và thực hành Phật pháp đủ để sau
này lớn lên chúng có thể trở về với những tiềm năng đó nếu chúng thích
hay cần đến. Tôi cũng nghĩ rằng nếu các con tôi có thể nương tựa nơi
Phật pháp, thì sau này, dù đang ở bất cứ nơi đâu, chúng cũng có thể quay
về với cái mái ấm đó. Nhất là, vì đối với tôi, gia tài lớn nhất mà tôi
có được qua sự thực tập Phật pháp là sự an lạc, thảnh thơi và lòng từ
bi, tôi tự hỏi làm cách nào tôi có thể trao truyền cái gia tài tâm linh
đó lại cho thế hệ sau. Được biết La Hầu La bắt đầu được Đức Phật dạy dỗ
từ năm 7 tuổi, tôi lục tìm trong những bản kinh tiếng Pàli để học lấy
những phương pháp mà Đức Phật đã sử dụng để dạy dỗ con của Ngài.
Tôi tìm thấy cách làm thế nào để lại một “gia tài tâm
linh” qua những mẩu chuyện thật hay trong kinh điển về việc La Hầu La đã
theo học với cha như thế nào. Sáu năm sau khi Đức Phật rời bỏ gia đình,
và một năm sau khi đạt được giác ngộ, Ngài trở về kinh thành. La Hầu
La, lúc ấy 7 tuổi, theo lời mẹ dạy, đã chạy đến bên cha để xin thừa
hưởng gia tài. Nếu như ngày xưa thái tử Tất Đạt Đa không bỏ kinh thành
ra đi, thì bây giờ La Hầu La đã được truyền ngôi. Nhưng là một người đã
buông bỏ hết tất cả, sống đời khổ hạnh, Đức Phật có thể trao lại cho con
mình cái gì? Đáp lời La Hầu La, Đức Phật quay sang nói với Tôn giả Xá
Lợi Phất (Sariputta), một đồ đệ thân tín của Ngài: “Hãy thâu nhận nó”.
Như vậy, thay vì được ngôi vua, La Hầu La đã được thừa hưởng con đường
đi của cha mình, con đường dẫn đến giải thoát.
Có lẽ còn lâu lắm con trai tôi mới cạo trọc đầu và khoác lên mình chiếc áo cà sa, nhưng tôi vẫn muốn cho con tôi tiếp xúc với những điều căn bản của Phật pháp, những điều đã chuyển hóa sâu sắc cuộc đời tôi. Khi tôi đọc những đoạn kinh về cách Đức Phật dạy La Hầu La, tôi ngạc nhiên nhận ra rằng những điều này không những vẫn còn mới mẻ mà còn rất thích hợp với việc dạy con ở nước Mỹ này, trong thời hiện đại này. Thật vậy, những bài pháp này đã trở thành kim chỉ nam cho tôi trong việc dạy con.
Có lẽ còn lâu lắm con trai tôi mới cạo trọc đầu và khoác lên mình chiếc áo cà sa, nhưng tôi vẫn muốn cho con tôi tiếp xúc với những điều căn bản của Phật pháp, những điều đã chuyển hóa sâu sắc cuộc đời tôi. Khi tôi đọc những đoạn kinh về cách Đức Phật dạy La Hầu La, tôi ngạc nhiên nhận ra rằng những điều này không những vẫn còn mới mẻ mà còn rất thích hợp với việc dạy con ở nước Mỹ này, trong thời hiện đại này. Thật vậy, những bài pháp này đã trở thành kim chỉ nam cho tôi trong việc dạy con.
ĐẠO ĐỨC
Câu chuyện đầu tiên kể về La Hầu La được Đức Phật dạy về
lòng chính trực. Lúc lên 8 tuổi, La Hầu La đã có lần nói dối. Kinh Giáo
giới La Hầu La (Trung Bộ kinh, 61) kể rằng sau khi tọa thiền xong, Đức
Phật đến tìm con. La Hầu La lấy ghế mời Thế Tôn ngồi, rồi mang đến một
thau nước cho Ngài rửa chân, theo phong tục thời ấy. Sau khi rửa chân
xong, Đức Phật hỏi:
- Này, La Hầu La, con có thấy chút nước còn lại trong cái thau này không?
- Dạ, con có thấy. La Hầu La thưa.
- Đời của một người tu cũng chỉ đáng bằng một chút nước này thôi, nếu như người đó cố tình nói dối.
- Này, La Hầu La, con có thấy chút nước còn lại trong cái thau này không?
- Dạ, con có thấy. La Hầu La thưa.
- Đời của một người tu cũng chỉ đáng bằng một chút nước này thôi, nếu như người đó cố tình nói dối.
Tôi tưởng tượng La Hầu La đỏ mặt lên.
Sau đó, Đức Phật đổ hết nước trong thau ra và nói:
- Đời của một người tu cũng đáng vất bỏ đi như vầy nếu như người đó cố tình nói dối.
Xong, Đức Phật lật cái thau úp xuống và nói:
- Đời của một người tu sẽ trở nên đảo lộn như vầy nếu như người đó cố tình nói dối.
Và, để nhấn mạnh thêm nữa, Đức Phật lật ngửa cái thau trở lại và nói:
- Đời của một người tu cũng trở nên trống rỗng như cái thau này nếu như người đó cố tình nói dối.
- Đời của một người tu cũng đáng vất bỏ đi như vầy nếu như người đó cố tình nói dối.
Xong, Đức Phật lật cái thau úp xuống và nói:
- Đời của một người tu sẽ trở nên đảo lộn như vầy nếu như người đó cố tình nói dối.
Và, để nhấn mạnh thêm nữa, Đức Phật lật ngửa cái thau trở lại và nói:
- Đời của một người tu cũng trở nên trống rỗng như cái thau này nếu như người đó cố tình nói dối.
Sau đó Ngài dạy La Hầu La:
- Đối với một người cố tình nói dối, không có một tội lỗi xấu xa nào mà người đó không thể làm. Vì vậy, La Hầu La, con hãy tập đừng bao giờ nói dối, cho dù đó là một lời nói đùa.
Câu chuyện trên đây nhắc nhở tôi rằng những lời la mắng giận dữ với con cái thực ra chỉ có sức mạnh mà không có nội lực. Đức Phật đã rất bình tĩnh, chọn thời điểm đúng lúc để dạy dỗ mà không trừng phạt hay nổi giận với La Hầu La.
- Đối với một người cố tình nói dối, không có một tội lỗi xấu xa nào mà người đó không thể làm. Vì vậy, La Hầu La, con hãy tập đừng bao giờ nói dối, cho dù đó là một lời nói đùa.
Câu chuyện trên đây nhắc nhở tôi rằng những lời la mắng giận dữ với con cái thực ra chỉ có sức mạnh mà không có nội lực. Đức Phật đã rất bình tĩnh, chọn thời điểm đúng lúc để dạy dỗ mà không trừng phạt hay nổi giận với La Hầu La.
Sau bài thuyết giảng ngắn mà nghiêm khắc, rõ ràng về
việc nói dối đó, tôi tưởng tượng La Hầu La đã lắng nghe hơn. Sau đó, Đức
Phật chỉ dẫn La Hầu La làm sao để suy xét mọi hành động của mình.
- Cái gương dùng để làm gì? Ngài hỏi.
- Bạch Đức Thế Tôn, gương dùng để soi. La Hầu La đáp.
Đức Phật lại dạy:
- Trong khi chuẩn bị làm điều gì bằng thân, khẩu, ý, con phải quán chiếu: hành động này có gây tổn hại cho mình hoặc cho kẻ khác không. Nếu, sau khi suy xét, con thấy rằng hành động đó sẽ có hại, thì con hãy đừng làm. Còn nếu con thấy rằng hành động đó có ích lợi cho con và cho kẻ khác, thì con hãy làm.
- Cái gương dùng để làm gì? Ngài hỏi.
- Bạch Đức Thế Tôn, gương dùng để soi. La Hầu La đáp.
Đức Phật lại dạy:
- Trong khi chuẩn bị làm điều gì bằng thân, khẩu, ý, con phải quán chiếu: hành động này có gây tổn hại cho mình hoặc cho kẻ khác không. Nếu, sau khi suy xét, con thấy rằng hành động đó sẽ có hại, thì con hãy đừng làm. Còn nếu con thấy rằng hành động đó có ích lợi cho con và cho kẻ khác, thì con hãy làm.
Tôi chợt nhận ra rằng thay vì dạy cho con mình nhận biết
sự khác biệt tuyệt đối giữa đúng và sai, Đức Phật đã dạy cho con suy
gẫm về lợi ích và có hại. Điều này đòi hỏi cả sự tự tri lẫn lòng bi mẫn.
Đặt nền tảng của đạo đức dựa trên “có lợi” hay “có hại” giúp giải thoát
đời sống đạo đức của ta khỏi những khái niệm trừu tượng và những ý niệm
chẳng ăn nhập gì tới hậu quả của việc ta làm. “Có lợi” và “có hại” cũng
giúp cho con người nhận biết mục tiêu của mình. Những điều ta làm sẽ
trở thành hoặc là nghịch duyên, hoặc là thuận duyên trên con đường ta
đi.
Phương pháp giáo hóa của Đức Phật khiến cho tôi càng tin
tưởng thêm rằng chúng ta cần gieo xuống nơi tâm hồn con trẻ những hạt
giống của lòng bi mẫn, những hạt giống của ý thức về việc mỗi hành động
của nó sẽ ảnh hưởng đến người khác như thế nào. Sức mạnh của sự quán
chiếu và lòng từ bi sẽ không có được nếu đứa trẻ chỉ biết vâng theo lời
của người lớn: “Con hãy biết quán chiếu, và hãy có lòng từ bi!”. Những
giá trị này chỉ có thể có được qua gương của người khác, nhất là của cha
mẹ đứa trẻ.
Đức Phật cũng dạy La Hầu La hãy xem xét sau khi làm một
việc gì đó, nó có gây tổn hại gì không. Nếu có, thì phải đến gặp một
người có tuệ giác và sám hối để tránh lặp lại lỗi lầm trong tương lai.
Tôi đã học được cách hướng dẫn con trẻ phát triển lòng chính trực bằng
cách nhận ra lỗi lầm của mình. Và lòng chính trực đó tùy thuộc rất nhiều
vào cách cha mẹ soi xét lỗi lầm của con mình ra sao. Cách hành xử của
cha mẹ ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển đạo đức của con trẻ: nếu
cha mẹ cho con trẻ thấy được là nó có thể tin tưởng mình được, là mình
chỉ muốn giúp cho con mình trưởng thành hơn là muốn trừng phạt con, thì
con trẻ sẽ trở nên thành thật với cha mẹ của chúng hơn.
THIỀN ĐỊNH
Câu chuyện thứ hai nói về việc Đức Phật đã dạy thiền cho
La Hầu La ra sao, nhằm phát triển nền tảng của nội tâm (Trung Bộ kinh,
62). Lúc đó La Hầu La được 10 tuổi. Câu chuyện bắt đầu trong lúc Đức
Phật và La Hầu La đi thiền hành. Trong lúc đi, La Hầu La chợt thấy hãnh
diện về vẻ đẹp của mình, và Đức Phật đã đọc được tư tưởng đó. Ngài nói
với La Hầu La:
- Nhìn bằng con mắt của tuệ giác, cái thân này không phải là tôi, không phải là của tôi, không phải là tự ngã của tôi. Rồi Đức Phật giảng tiếp: Ta phải loại bỏ hết tất cả tưởng, hành, thức cũng như bất cứ ý niệm nào về tôi, của tôi, và tự ngã của tôi.
- Nhìn bằng con mắt của tuệ giác, cái thân này không phải là tôi, không phải là của tôi, không phải là tự ngã của tôi. Rồi Đức Phật giảng tiếp: Ta phải loại bỏ hết tất cả tưởng, hành, thức cũng như bất cứ ý niệm nào về tôi, của tôi, và tự ngã của tôi.
Nghe những lời dạy này xong, La Hầu La cảm thấy hổ thẹn, lui về tinh xá, và không thiết gì đến việc ăn uống suốt ngày hôm đó.
Tôi cho rằng đây là sự dạy dỗ căn bản cho con trẻ. Tôi
không thể tưởng tượng được bản thân tôi lúc 10 tuổi có thể hiểu được
những lời Phật dạy như thế. Tôi nhớ lại, rất rõ ràng, rằng ở vào tuổi
đó, đầu óc tôi chỉ toàn lo nghĩ đến diện mạo của tôi ra sao. Tôi thường
nghe nói rằng điều này rất là quan trọng cho tiến trình phát triển của
các em về “cái tôi” và quá trình đi tìm kiếm bản thân mình. Có nên trách
một em trai 14 tuổi về những ý tưởng phù du như vậy hay không? Có phải
Đức Phật đã xen vào tiến trình phát triển bình thường của con trẻ, thay
vì để chúng tự khám phá? Nếu không có hiểu biết về “cái tôi”, làm sao
một thiếu niên có thể phát triển thành một người lớn với một tâm lý
thăng bằng?
Câu trả lời nằm ở những gì Đức Phật dạy La Hầu La ở đoạn sau đây:
Tối hôm đó, sau khi bị Đức Phật quở trách, La Hầu La đến xin Ngài dạy cho mình phương pháp thiền quán hơi thở. Trước hết, Đức Phật dùng thí dụ để minh họa làm sao để buông xả trong lúc thiền định. Ngài dạy:
- Phải thiền làm sao giống như đất vậy: đất không cảm thấy phiền vì bất cứ một thứ gì đổ lên đó. Vì vậy, nếu tập thiền giống như đất, con sẽ không có cảm giác vui thích hay không vui thích về bất cứ một điều gì. Hãy tập thiền như nước, như lửa, như gió, và như không gian: tất cả đều không cảm thấy phiền bởi những cảm giác vui thích hay không vui thích. Thực tập được như nước, như lửa, như gió, như không gian, tâm của con sẽ không còn vướng bận gì cả.
Rồi, trước khi dạy cho La Hầu La phép quán niệm hơi thở, Đức Phật dạy về quán tâm từ như là một phương thuốc giải độc trừ khử ác tâm, về tâm bi để vượt thắng sự tàn ác, về tâm hỷ để thuần phục những sự bất toại nguyện, và về tâm xả để ngăn chặn những bất an, thương ghét.
Sau đó, Ngài mới bắt đầu dạy cho La Hầu La phép quán niệm hơi thở qua 16 giai đoạn. Những giai đoạn này chia làm 3 phần: a) Tịnh tâm và thân; b) Định tâm để nhận biết thân tâm và phát triển tuệ giác; và c) Buông xả. Cuối cùng, Đức Phật lưu lại một dấu ấn đậm nét về giáo lý của Ngài với La Hầu La bằng cách nhấn mạnh rằng qua sự thực tập ý thức từng hơi thở của mình, ta sẽ có khả năng nhận biết hơi thở cuối cùng của mình vào giây phút cận tử một cách hoàn toàn bình thản.
Tối hôm đó, sau khi bị Đức Phật quở trách, La Hầu La đến xin Ngài dạy cho mình phương pháp thiền quán hơi thở. Trước hết, Đức Phật dùng thí dụ để minh họa làm sao để buông xả trong lúc thiền định. Ngài dạy:
- Phải thiền làm sao giống như đất vậy: đất không cảm thấy phiền vì bất cứ một thứ gì đổ lên đó. Vì vậy, nếu tập thiền giống như đất, con sẽ không có cảm giác vui thích hay không vui thích về bất cứ một điều gì. Hãy tập thiền như nước, như lửa, như gió, và như không gian: tất cả đều không cảm thấy phiền bởi những cảm giác vui thích hay không vui thích. Thực tập được như nước, như lửa, như gió, như không gian, tâm của con sẽ không còn vướng bận gì cả.
Rồi, trước khi dạy cho La Hầu La phép quán niệm hơi thở, Đức Phật dạy về quán tâm từ như là một phương thuốc giải độc trừ khử ác tâm, về tâm bi để vượt thắng sự tàn ác, về tâm hỷ để thuần phục những sự bất toại nguyện, và về tâm xả để ngăn chặn những bất an, thương ghét.
Sau đó, Ngài mới bắt đầu dạy cho La Hầu La phép quán niệm hơi thở qua 16 giai đoạn. Những giai đoạn này chia làm 3 phần: a) Tịnh tâm và thân; b) Định tâm để nhận biết thân tâm và phát triển tuệ giác; và c) Buông xả. Cuối cùng, Đức Phật lưu lại một dấu ấn đậm nét về giáo lý của Ngài với La Hầu La bằng cách nhấn mạnh rằng qua sự thực tập ý thức từng hơi thở của mình, ta sẽ có khả năng nhận biết hơi thở cuối cùng của mình vào giây phút cận tử một cách hoàn toàn bình thản.
Khi đọc về cách thức Đức Phật dạy La Hầu La phép thở để
nhận biết thân tâm của mình, tôi nhận thấy đó cũng là một phương pháp để
xây dựng một khái niệm vững chắc về “cái tôi”. Tôi tự nghĩ, phải chăng
các em thiếu niên ở thời đại ngày nay hay chấp vào “cái tôi” của mình và
có nhiều ý niệm phân biệt mình với kẻ khác, là vì các em không cảm thấy
thoải mái với chính bản thân mình và với người khác? Và tôi tin rằng,
cái chấp và sự phân biệt ấy sẽ không còn nữa nếu các em cảm thấy an vui
được với chính mình cũng như thoải mái với người chung quanh.
Khi giảng dạy thiền cho thiếu niên, tôi nhận thấy khả năng thiền của các em vượt bậc vào khoảng 13-14 tuổi. Có nhiều em có thể nhập thiền rất sâu, tuy rằng các em không duy trì được trạng thái này lâu lắm. Tôi đã biết rất nhiều người trẻ dùng phương pháp thiền định để ổn định tinh thần và tìm về sự thảnh thơi an lạc giữa những thử thách của tuổi mới lớn.
Khi giảng dạy thiền cho thiếu niên, tôi nhận thấy khả năng thiền của các em vượt bậc vào khoảng 13-14 tuổi. Có nhiều em có thể nhập thiền rất sâu, tuy rằng các em không duy trì được trạng thái này lâu lắm. Tôi đã biết rất nhiều người trẻ dùng phương pháp thiền định để ổn định tinh thần và tìm về sự thảnh thơi an lạc giữa những thử thách của tuổi mới lớn.
Tuy nhiên, thiền quán hơi thở không chỉ ích lợi cho các
em thiếu niên, mà nó còn là cuộc hành trình suốt đời. Đức Phật đã kết
thúc bài giảng của mình bằng cách chỉ cho La Hầu La thấy giá trị của
việc tập quán niệm hơi thở như thế nào đối với giây phút cuối cùng của
cuộc đời mình.
TUỆ GIÁC
Trong bài pháp thứ ba và cuối cùng, Đức Phật đã hướng
dẫn La Hầu La trả lời một loạt những câu hỏi về tuệ giác giải thoát
(Trung Bộ kinh, 147). La Hầu La đã dâng trọn thời niên thiếu của mình
cho con đường đạt đến giác ngộ; trong một đoạn kinh, Tôn giả được xem là
một nhà tu gương mẫu và tinh chuyên. Khi La Hầu La tròn 20 tuổi, Đức
Phật biết rằng La Hầu La đã gần đến bờ giải thoát. Ngài đã làm một việc
hết sức cảm động: Ngài đi bộ cùng với La Hầu La vào sâu trong rừng. Ngồi
dưới gốc một cây đại thụ già cỗi, Ngài đã hướng dẫn La Hầu La một cuộc
pháp đàm rất kỹ về thuyết vô ngã. Đối với một người đã đạt đến trình độ
tu tập cao như La Hầu La, thì những tư tưởng nằm sâu trong tiềm thức về
cái ngã là chướng ngại cuối cùng của sự giải thoát. Ngồi nghe Đức Phật
giảng, La Hầu La đã chứng đắc được tự tính vô ngã của vạn pháp, và đó
chính là nấc thang cuối cùng giúp La Hầu La đạt đến sự giải thoát trọn
vẹn.
Thuyết vô ngã của Đức Phật có thể khó hiểu. Người ta rất
dễ ngộ nhận nó là một triết thuyết trừu tượng, mà không thấy được thực
ra đó chính là những lời dạy rất thực tế về việc làm thế nào để tìm thấy
hạnh phúc bằng cách buông bỏ hết tất cả. Đối với tôi, việc Đức Phật dạy
La Hầu La về thuyết vô ngã trong rừng sâu rất cần thiết. Tôi thấy mình
có cái nhìn khác khi ở giữa quang cảnh thiên nhiên so với khi ở giữa phố
thị. Tôi nhận thấy cảm giác an lạc và thảnh thơi mà thiên nhiên mang
lại giúp mình dễ thoát ra được ý niệm về ngã hơn. Quán chiếu về sự buông
xả trong khi đọc một cuốn sách về Phật pháp khi ngồi ở trong nhà rất là
khác với khi mình ngồi dưới một gốc cây. Trong khi đọc bài pháp thứ ba
này, tôi chiêm nghiệm được sự quan trọng của việc biết mình (tự tri)
giữa khung cảnh thiên nhiên.
Ngày xưa, lúc La Hầu La 7 tuổi, đến xin với cha được
thừa hưởng gia tài, Tôn giả đã không hề tưởng tượng được là 13 năm sau
đó đã được thừa hưởng một gia tài quý báu nhất mà một người làm cha mẹ
có thể để lại cho con cái của mình. Trong Phật giáo, giác ngộ là hạnh
phúc lớn lao nhất. Tôi ước mong con cái của tôi sẽ tìm thấy sự an lạc,
thảnh thơi và an lành trên con đường đi tới giải thoát. Và có lẽ, trên
con đường trở thành người lớn, chúng cũng sẽ được dạy về đạo đức, thiền
định và tuệ giác (như La Hầu La vậy).
GIL FRONSDAL-HOÀI HƯƠNG dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét