Công đức và phước đức là gì? Có khác nhau không?
Khi làm các Phật sự, chúng ta thường nghĩ là được nhiều công đức và
thường được tán dương đã làm được vô lượng công đức, cho nên cứ tiếp tục
làm hằng năm. Chúng ta hãy dành thời gian để tìm hiểu một vấn đề khá quan trọng, đó là: "Công Ðức và Phúc Ðức khác nhau thế nào?"
Ngày xưa, khi Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma từ Ấn Ðộ sang Trung Hoa hoằng pháp, Ngài
đến gặp Vua Lương Võ Ðế. Trong lúc luận bàn đạo lý, nhà vua hỏi: "Trẫm
một đời cất chùa, độ tăng, bố thí, cúng dường, đúc chuông, tạo tượng, ấn
tống kinh sách, như vậy có được công đức gì chăng?". Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma
trả lời một cách rõ ràng rằng: "Những việc làm ấy thực không có công đức
gì cả!". Vấn đề này làm cho nhiều người thắc mắc, không biết tại làm
sao như vậy lại không có công đức gì cả? Bởi vì, theo lịch sử ghi chép
lại thì Vua Lương Võ Ðế xây cất hằng trăm ngôi chùa, độ tăng chúng tu
hành rất đông, thiết trai bố thí, cúng dường, đúc chuông, tạo tượng, ấn
tống kinh sách nhiều vô số kể. Nhà vua suy nghĩ làm như vậy tức nhiên
được rất nhiều công đức, nhưng không ngờ khi đem vấn đề này ra hỏi, Tổ
Bồ Ðề Ðạt Ma trả lời: Không! Tại sao vậy? Có người không hiểu giáo lý
nên giải thích là: Vua Lương Võ Ðế không đích thân ra "công" thực hiện
những việc làm đó, chỉ sai người khác làm, nên không có "công đức" gì
cả! Thời gian sau đó, có người đem sự việc này thưa hỏi Lục Tổ Huệ Năng
và được Lục Tổ dạy như sau: Quả thực là không có công đức gì cả. Vua
Lương Võ Ðế vì không biết Chính Pháp, nên lầm lẫn hai chữ "Công Ðức" và
"Phúc Ðức"!
Nghĩa là cất hàng trăm ngôi chùa, độ tăng chúng tu
hành rất đông, thiết trai cúng dường, bố thí, đúc chuông, tạo tượng, ấn
tống kinh sách, chỉ là những việc làm "bên ngoài", có ích lợi cho mọi
người, những việc làm cầu phúc, nên gọi là phúc đức. Phúc đức có công
năng giúp chúng ta giảm thiểu nghiệp chướng, tiêu trừ quả báo, để được
tai qua nạn khỏi, để được may mắn và sung sướng trên đường đời, để bớt
chướng ngại trên đường đạo, chứ không giúp chúng ta thoát ly khỏi vòng
trầm luân sinh tử. Phúc đức có tính cách "hữu lậu" hay "hữu vi", nghĩa
là con người hưởng phúc vẫn còn trong lục đạo luân hồi. Khi thụ hưởng
hết phúc rồi thì bị đọa lạc để đền trả quả báo.
Còn công đức là
công phu tu tập "bên trong", có ích lợi cho chính mình, nhờ hành trì
theo lời Phật dạy trong các kinh điển, luôn luôn niệm Phật, giữ gìn giới
luật, tu tập thiền định, phát huy trí tuệ bát nhã. Nghĩa là chúng ta tu
tập tam vô lậu học "Giới Ðịnh Tuệ" và tam tuệ học "Văn Tư Tu", nhằm mục
đích cứu kính là: thoát ly khỏi lục đạo sinh tử luân hồi. Công đức có
năng lực giúp chúng ta vượt qua bể khổ sông mê, chóng đến bờ giác ngộ và
giải thoát. Công đức có tính cách "vô lậu" hay "vô vi", nghĩa là không
còn trong lục đạo sinh tử luân hồi nữa. Công đức giúp con người chuyển
hóa tâm tính từ phàm phu tục tử trở thành bồ tát, thành Phật. Chúng ta
làm những việc như lập chùa hay góp phần xây cất chùa, tham gia phát
triển chùa, phát huy các sinh hoạt, các hoạt động của chùa, của giáo
hội, giúp cho mọi người khác có được cơ sở để tu học, để hành đạo, giúp
cho Phật giáo có cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn, rộng rãi hơn, vững chắc
hơn, độ được nhiều người hữu duyên hơn nữa. Những việc làm này đem lại
lợi ích cho nhiều người như vậy, tất nhiên sẽ đem lại cho chúng ta thực
nhiều phúc đức.
Còn riêng bản thân mình thì không biết tu tâm
dưỡng tính, không học kinh điển, không biết trì giới, không tu tập thiền
định, không phát huy trí tuệ bát nhã, cho nên tất cả việc làm trên đây
chỉ là những việc làm bên ngoài, có ích lợi cho nhiều người, nhưng không
ích lợi cho bản thân mình về phương diện giác ngộ và giải thoát. Tại
sao vậy? Bởi vì, tâm tham lam, sân hận, si mê bên trong chẳng những
không giảm bớt mà lại có chiều hướng tăng thêm, vô minh phiền não không
tan biến chút nào mà lại có phần dầy đặc hơn. Vì chấp chặt mình đã làm
được bao nhiêu việc ích lợi như vậy, dễ có mấy ai làm được như mình, nên
tâm cống cao ngã mạn, phách lối ngày một tăng thêm, mục hạ vô nhân,
khen mình khinh người.
Những việc làm khác như góp phần ấn tống
kinh sách cho người khác đọc, còn mình thì không đọc, góp phần bố thí
cúng dường, giúp đỡ người hoạn nạn, nghèo khó, nhưng không hiểu ý nghĩa
cao cả của những việc làm đó, lại sinh tâm cầu mong được "trả công bội
hậu" ở cõi thiên đàng sau này. Tất cả những việc làm đó chỉ tạo nên phúc
đức mà thôi.
Thí dụ như có người bố thí cho nhà nghèo, hoặc
cúng chùa một số tiền nào đó, với tâm mong cầu được trúng số độc đắc,
được buôn may bán đắt, được nhất bản vạn lợi, được thi đâu đậu đó, được
gia đạo bình an, được tình duyên may mắn, được vạn sự bình yên, được
muôn sự như ý, muốn gì được nấy. Như vậy, lòng tham lam tăng thêm quá
mức thì "làm sao có công đức được!". Làm như vậy, chỉ có phúc đức hạn
chế theo số tiền đã bỏ ra mà thôi. Gieo nhân nhỏ thì chỉ nhận được quả
nhỏ, không thể khác được.
Nếu như bố thí, cúng dường mà tâm không
mong cầu gì cả, thi ân bất cầu báo đáp, cúng chùa để chùa có thêm phương
tiện sinh hoạt ích lợi cho mọi người, giúp người để cho người qua cơn
khó khăn, túng thiếu, không đắn đo, không suy nghĩ, không tính toán gì
thêm nữa, chúng ta sẽ bớt đi tâm tham lam, bỏn sẻn, tăng trưởng tứ vô
lượng tâm: từ, bi, hỷ, xả. Như vậy, những việc làm đó vừa ích lợi cho
người, vừa ích lợi cho mình. Nghĩa là vừa được phúc đức vừa được công
đức.
Chúng ta hãy tinh tấn làm tất cả những việc thiện, rồi
quên hết đi, không chấp chặt vào đó, để kể lể công lao, hay mong cầu
phúc báo về sau, tâm cầu danh của chúng ta sẽ bớt đi, tâm chấp ngã cũng
nhẹ hơn trước, thì những việc làm đó vừa ích lợi cho người và cho mình,
tạo nên phúc đức và công đức vậy.
Trong Kinh Ðại Bát Niết Bàn,
Ðức Phật có dạy: "Chư ác mạc tác. Chúng thiện phụng hành. Tự tịnh kỳ ý.
Thị chư Phật giáo". Nghĩa là chúng ta không làm tất cả các việc bất
thiện, không làm những việc ác, tránh những việc tổn người hại vật, cố
gắng làm tất cả những việc thiện, những việc ích lợi cho người khác,
nhưng đừng ghi nhớ, đừng chấp chặt vào những việc ích lợi đã làm, thì
tâm ý của chúng ta sẽ được thanh tịnh.
Ðó là tu tâm dưỡng tính,
đó là điều cốt yếu chư Phật mười phương ba đời muốn dạy như vậy. Thí dụ
chúng ta đã làm những việc ích lợi cho bất cứ ai mà chấp chặt vào đó
thì tâm của chúng ta sẽ bực dọc, bất an khi không được ai khen tặng hoặc
không được ai đáp ứng như ý. Nếu như quên đi những việc thiện đã làm,
giúp đỡ người với tâm "thi ân bất cầu báo đáp", thì chúng ta sẽ yên ổn,
bình an, tâm của chúng ta sẽ không loạn động, không bực bội khi gặp phải
người vô ơn.
Trong Kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng dạy
rằng: "Trong tâm khiêm tốn là công. Ngoài hành lễ phép là đức". Hay:
"Nội cần khắc niệm chi công. Ngoại hoằng bất tranh chi đức". Nghĩa là
"bên trong" chúng ta phải chuyên cần vận nội lực loại trừ những tâm niệm
kiêu ngạo, tật đố, ngã mạn, ganh tị, đố kỵ, khen mình khinh người, để
đạt được tâm niệm khiêm tốn, hạ mình, nhún nhường, tùy hỷ công đức.
Ðồng thời, chúng ta cũng phải vận nội công để khắc phục các tạp niệm,
để tâm không còn có các vọng tưởng. Mỗi khi tạp niệm, vọng tưởng khởi
lên, chúng ta liền giác ngộ, liền nhận biết và dừng ngay, không tiếp tục
theo dòng tâm thức, đi lang thang từ đông sang tây, từ quá khứ đến hiện
tại và vị lai, từ chuyện này đến chuyện khác. Như vậy chúng ta có được
"công".
Ðiều quan trọng cần biết là: chúng ta đừng sợ có vọng
tưởng, tạp niệm khởi lên trong tâm thức. Ai ai cũng có vọng tưởng và tạp
niệm. Chỉ sợ chúng ta không giác ngộ, không nhận biết kịp thời, nên bị
vọng tưởng, tạp niệm lôi cuốn, đi lang thang làm khách phong trần, quên
mất cố hương, từ bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp.
Khi dong ruổi
theo các vọng tưởng, tạp niệm như vậy, tâm của chúng ta sẽ loạn động với
thất tình lục dục, tức là quên mất "bản tâm thanh tịnh" sẵn có của
chúng ta.
Còn "bên ngoài" chúng ta thực hành lễ phép, cung kính, tôn
trọng tất cả mọi người, bởi vì mọi người ai ai cũng có "Chân Tâm Phật
Tính" như nhau, mọi người ai ai cũng có ưu điểm để chúng ta học hỏi, noi
theo, không phân biệt, không thành kiến, không kỳ thị, không tranh cãi,
không hơn thua, không thị phi, không ỷ mình là kẻ trên người trước, kẻ
có nhiều công lao, kẻ có nhiều tài năng, kẻ làm được nhiều việc không ai
bằng.
Như vậy chúng ta được nhiều người thương mến, gần gũi. Như vậy chúng ta có được "đức".
Thêm nữa, người Phật Tử muốn có công đức thì bên trong không có tâm
chấp ngã, tâm chấp pháp, nói chung là tâm cố chấp; bên ngoài hành động
luôn luôn ngay thẳng, bình đẳng, công minh, chính trực.
Hãy
phát tâm tìm học kinh điển, biết đúng Chính Pháp mà hành theo, tránh
chuyện tu mù, tu mò, để khỏi lạc sang tà giáo, ngoại đạo. Công đức là ở
"Pháp Thân", phát sinh trí tuệ bát nhã, không do tu phúc, không do làm
những việc phúc thiện mà được.
Chúng ta ngày nay cũng hay lầm
lẫn cho rằng lập chùa, giúp chư tăng tu học, bố thí, cúng dường, làm
Phật sự, đi chùa lạy Phật là được nhiều công đức và tự hào rằng mình làm
vô lượng vô biên công đức, cần phải được tán thán, rồi chờ đến ngày
được vãng sinh về cõi tây phương cực lạc quốc của Ðức Phật A Di Ðà!
Trong Kinh A Di Ðà, Ðức Phật dạy rất rõ ràng cõi Tây phương cực lạc là
nơi chỉ có các bậc bồ tát "nhứt sinh bổ xứ", tức là các bực "thượng
thiện nhơn" sắp thành Phật, những người hiền thiện bậc thượng, gặp gỡ
nhau mà thôi.
Những người còn đầy dẫy tham sân si, đầy dẫy
nghiệp chướng, đầy dẫy phiền não thì nhứt định không thể nào đạt được
cảnh giới đó. Không thể chỉ lấy có một chút ít thiện căn phúc đức làm
nhân duyên, để cầu nguyện về cõi cực lạc đó được.
Ví như người
đeo nặng qua sông thì phải chìm, không thể nổi được. Chứ không phải Ðức
Phật A Di Ðà không có lòng từ bi cứu độ chúng ta.
Chư Phật có
tâm đại từ đại bi muốn cứu độ chúng ta, nên chỉ dạy các pháp môn tu học,
các phương pháp, để chúng ta noi theo đó mà tự mình tu tập, để tự được
cảnh giới an lạc và hạnh phúc hiện đời và vãng sinh mai sau.
Có
người quan niệm "đới nghiệp vãng sinh", nghĩa là con người vẫn còn mang
nghiệp chướng, nhưng nhờ biết niệm Phật A Di Ðà, nên được Ngài thương
xót cho vãng sinh về cõi tây phương cực lạc, rồi tu tiếp sướng hơn.
Ðiều này có vẻ "phe đảng" cũng như quan niệm cứ chấp nhận rước thượng
đế vào lòng thì sẽ được thượng đế cho về thiên đàng, hưởng phúc đời đời,
không cần biết đó là người như thế nào!
Thực ra, đạo Phật không có
dạy như vậy. Nếu thực sự muốn tu cho thành người tốt, thì chúng ta hãy
tu ngay ở cõi đời này, đừng hẹn. Còn mang nghiệp chướng nặng nề, tham
giận kiêu căng, si mê lầm lạc, nếu về tây phương, chỉ làm nơi đó ô uế mà
thôi.
Dù có được về bên đó chăng nữa, không thấy thích hợp, cũng sẽ đòi về trở lại mà thôi!
Sống với những người thế tục, chúng ta mới cần phải tu, mới có cơ hội
để tu. Chứ về bên đó gặp toàn người tốt thì đâu cần phải tu nữa.
Cũng như người còn nhiều phiền não quá, nhiều nghiệp chướng quá, dù có
được đưa vào chùa ở, mà không quyết tâm trì chí, cũng khó mà tu được, có
ngày cũng xuất, nếu không xuất thì sẽ gây biết bao nhiêu việc đáng tiếc
cho cảnh thiền môn!
Trong Kinh A Di Ðà, Ðức Phật cũng dạy nếu
có thiện nam, thiện nữ nào nghe được danh hiệu Phật A Di Ðà, luôn luôn
trì giữ danh hiệu đó trong tâm trí, lúc nào cũng niệm Phật, nhớ nghĩ tới
Phật, trong một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày,
cho đến bảy ngày, đạt được tâm yên không loạn.
Khi thọ mệnh
hết, người như vậy giữ gìn được tâm không điên đảo, tức thời được vãng
sinh cõi nước tây phương cực lạc của Ðức Phật A Di Ðà. Tại sao vậy?
Bởi vì khi tâm của người đó luôn luôn niệm Phật, không còn lăng xăng,
lộn xộn, không còn loạn động vì các việc đối đãi thị phi, hơn thua, tốt
xấu, cho nên cảm ứng được cảnh giới tịnh độ của Ðức Phật A Di Ðà vậy.
Nói cách khác, tâm của người đó thấy mọi sự đúng như thực, thấy mọi
việc không còn điên đảo, gọi là "tâm bất điên đảo", cho nên người đó
thấy được "Tự Tính Di Ðà, Duy Tâm Tịnh Ðộ".
Nghĩa là nhờ tâm
được thanh tịnh, bất loạn động, bất điên đảo, cho nên người đó thấy được
"Phật Tính", tức là "Pháp Vô Sinh", không còn sinh tử luân hồi, tức đắc
vãng sinh tây phương cực lạc.
Nếu còn nghiệp chướng nặng nề,
tham giận kiêu căng, si mê lầm lạc, nghĩa là tâm còn điên đảo, tâm còn
loạn động, làm sao vãng sinh được mà mong cầu!
Cõi tây phương
cực lạc hay cõi thiên đàng là cảnh giới "bất tùy phân biệt", bình đẳng
tuyệt đối, chí công vô tư, làm gì còn chia giai cấp có chín phẩm, ba
hạng, thượng trung hạ, như con người tưởng tượng cho thêm lộn xộn và
phức tạp! Không thể lấy tâm lượng phàm phu xét cảnh giới bồ tát!
Như vậy, cốt tủy của đạo Phật, không phải là van xin cầu nguyện, cúng
kiến lễ lạy cho nhiều, mà chính là lúc nào cũng nhớ nghĩ tới hạnh nguyện
của chư Phật, nói lời như Phật dạy, hành động như Phật dạy, luôn luôn
giữ gìn tâm ý thanh tịnh, bình an, yên tĩnh, không loạn động, không điên
đảo.
Ðược như vậy, tam nghiệp hằng thanh tịnh, chúng ta vừa có
phúc đức vừa có công đức đầy đủ, phúc tuệ trang nghiêm, tùy tâm mãn
nguyện. Kinh sách có câu: "Phúc Tuệ Lưỡng Toàn Phương Tác Phật". Cứu
kính của đạo Phật chính là nghĩa đó vậy.
Trên thế gian này,
chung quanh chúng ta có đủ hạng người, có đủ loại người. Có người tạo
thuận cảnh dễ dãi, giúp đỡ chúng ta tu tập, cũng có người tạo nghịch
cảnh, gây phiền hà, khó khăn, khổ đau, để thử thách công phu tu tập của
chúng ta. Tất cả mọi người đều là thiện hữu tri thức của chúng ta cả.
Nếu ai ai cũng hiền thiện hết, không ai làm phiền mình hết, làm sao
biết chúng ta nhẫn nhịn được tới đâu? Ví như người học sinh đi học, được
thầy dạy cho kiến thức, được bạn bè giúp đỡ, rồi cũng cần có vị giám
khảo để kiểm tra trình độ, hạch hỏi, thử thách, nếu vượt qua được, mới
cấp văn bằng chứ.
Tóm lại, vì không biết rõ đâu là Chính Pháp,
cho nên chúng ta không thể thực hành lời Phật dạy, một cách tường tận,
một cách đúng đắn, để thoát ly sinh tử luân hồi, thoát ly phiền não và
khổ đau.
Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy: "Hãy tự thắp
đuốc lên mà đi. Thắp lên với Chính Pháp". Nghĩa là mọi người phải tìm
hiểu, học hỏi Chính Pháp, đem ngọn đuốc trí tuệ của mình mồi với ngọn
đuốc trí tuệ Phật, bằng cách nghe giảng giáo lý, nghiên tầm kinh điển,
rồi tự suy nghĩ, ứng dụng trong cuộc sống hằng ngày, giữ gìn giới luật,
tu tập thiền định, phát triển trí tuệ bát nhã.
Nhờ giữ gìn
giới luật nên tâm trí được thanh tịnh và trí tuệ bát nhã khai mở. Ðó
chính là tam vô lậu học "Giới Ðịnh Tuệ" và tam tuệ học "Văn Tư Tu", có
khả năng đưa chúng ta đến chỗ giác ngộ và giải thoát.
Kinh sách
có câu: "Phúc Tuệ Lưỡng Toàn Phương Tác Phật". Nghĩa là chúng ta hãy
phát tâm bồ đề dũng mãnh, làm tất cả những việc tạo phúc đức trong các
dịp lễ thượng nguyên, trung nguyên, hạ nguyên, và tất cả dịp nào tùy
duyên, tùy khả năng, tùy hoàn cảnh trong suốt năm, suốt đời.
Ðồng thời chúng ta cũng làm tất cả những việc tạo công đức như Văn Tư
Tu, Giới Ðịnh Tuệ, để phát triển trí tuệ bát nhã. Ðầy đủ "Phúc và Tuệ"
chúng ta sẽ sống trong an lạc và hạnh phúc hiện đời và về cõi Phật sau
này, không nghi. Cũng như con chim có đủ hai cánh sẽ bay thăng bằng và
bay được xa.
Có câu: "Ai ăn nấy no. Ai tu nấy chứng". Ðó là lẽ
công bằng tuyệt đối. Cũng vậy, thực rõ ràng "Mình làm mình hưởng. Mình
làm mình chịu".
Vì thế cho nên, ngay từ bây giờ, chúng ta hãy
phát tâm, tự thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ của mình, thường xuyên về chùa
lạy Phật, nghe thuyết pháp, tham dự các khóa tu học bát quan trai giới,
để được học Phật Pháp một cách tường tận.
Trong bầu không khí
tu học đầy đạo vị, không phân biệt người mới phát tâm, hay người đã tham
gia tu học từ lâu, chúng ta cùng hướng dẫn nhau, nương tựa nhau, giúp
đỡ nhau, trên bước đường tu giác ngộ và giải thoát.
Ðược như vậy, chúng ta có "Công Ðức và Phúc Ðức", một cách viên mãn, một cách song toàn.
(Thích Chân Tuệ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét